Báo cáo tình hình nguy cơ An toàn thông tin từ hệ thống Threat Intelligence của VCS trong 9 tháng đầu năm 2023 chỉ ra, Việt Nam đã có khoảng 12 triệu tài khoản bị xâm nhập với 48 triệu các bản ghi của tổ chức, cá nhân được rao bán công khai. Hơn 300 GB dữ liệu bị mã hóa tống tiền, cùng hơn 5.800 tên miền mạo danh được hacker sử dụng để lừa đảo nhằm gian lận, ăn cắp tài khoản của người dùng.
Theo ông Hải, khi một doanh nghiệp nói “không gặp vấn đề về an toàn thông tin”, họ hoàn toàn có thể đang rơi vào tình trạng đã bị tấn công mà không biết, bởi các nhóm tấn công chuyên nghiệp, hoạt động âm thầm và lâu dài bên trong hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) của doanh nghiệp.
Cuộc chiến an ninh mạng “bất đối xứng”
Trước đây, các tổ chức tội phạm mạng thường chỉ tập trung vào các doanh nghiệp lớn, nhưng nay có thêm mục tiêu mới là các doanh nghiệp ở mọi quy mô, khi tất cả đều chuyển đổi số và đưa hoạt động của mình lên Internet. Điều này, theo ông Hải sẽ tạo nên một cuộc đấu “bất đối xứng” giữa doanh nghiệp và tội phạm mạng.
“Doanh thu lớn từ hoạt động tấn công trở thành động lực cho các tổ chức tội phạm mạng hành động một cách quyết liệt. Thế lực này có bộ máy như một doanh nghiệp toàn cầu, với đủ các bộ phận từ vận hành, khai thác, nhóm nghiên cứu. Với nguồn lực khổng lồ, các tổ chức này cũng dễ dàng thuê được những hacker giỏi nhất làm việc cho mình, thực hiện công việc chính là tấn công liên tục vào các hệ thống của doanh nghiệp”, ông Hải phân tích.
Trong khi đó, đối thủ của họ là những phòng ban an toàn thông tin của doanh nghiệp được tổ chức đơn giản, đầu tư hạn chế. Trong xu hướng tấn công mạng được cung cấp dưới dạng dịch vụ, với số tiền từ vài chục USD mỗi tháng, bất cứ ai cũng có thể trở thành nạn nhân của các nhóm tội phạm mạng này.
Đối tác đồng hành an toàn thông tin
Từ góc nhìn này, ông Nguyễn Sơn Hải cho rằng, việc đầu tiên để đảm bảo an toàn cho hệ thống là giải quyết vấn đề bất đối xứng trong năng lực an toàn thông tin. “Tội phạm mạng lớn hơn chúng ta rất nhiều, vì vậy “phép cộng” với một đối tác chuyên sâu về an toàn thông tin sẽ là cách để cân bằng “cuộc chiến” này”, ông Hải nói.
Khác với việc cung cấp giải pháp hoặc dịch vụ đơn thuần, đối tác đồng hành an toàn thông tin được hiểu là một đối tác có thể sống cùng vòng đời với tổ chức, đồng hành giải quyết mọi vấn đề về an toàn thông tin. Kết quả sẽ được đo bằng việc cùng nâng cao mức độ trưởng thành về an toàn thông tin của tổ chức theo thời gian.
Theo ông Nguyễn Anh Tuấn - Phó Giám đốc VCS, đây là cũng nhu cầu của thị trường hiện nay và được các doanh nghiệp ngày càng quan tâm: “Khi xác định đầu tư bài bản, họ muốn có một đối tác đồng hành, có sự cam kết chứ không chỉ là mua bán dịch vụ, giải pháp… Cách làm này cũng được đánh giá là giúp giảm chi phí, thời gian so với việc tự xây dựng một bộ phận an toàn thông tin đầy đủ”.
Ở vai trò đơn vị hàng đầu Việt Nam về an toàn thông tin, đại diện VCS cho biết sẽ triển khai chương trình đồng hành cùng doanh nghiệp trưởng thành về an toàn thông tin (Cybersecurity Maturity Program - CSMP); nhấn mạnh về sự gắn kết sâu trong thời gian dài cùng doanh nghiệp để nâng cao độ trưởng thành an toàn thông tin.
Doanh nghiệp có thể tận dụng nguồn lực từ VCS với hơn 500 nhân sự, trong đó nhiều nhân sự tầm thế giới, được khẳng định qua các bảng xếp hạng của Microsoft, Google hay các cuộc tấn công mạng lớn nhất thế giới Pwn2Own. VCS cũng là doanh nghiệp hàng đầu tại Việt Nam về thị phần SOC, cùng thế mạnh của nhà cung cấp dịch vụ Internet, giúp ngăn chặn các cuộc tấn công DDoS ngay từ đường truyền. Đội ngũ VCS đồng hành giúp nâng cao năng lực nội tại của doanh nghiệp, thông qua việc đào tạo cho đội ngũ, chia sẻ tri thức, sẵn sàng đứng ra ứng cứu sự cố.
“Một đối tác đồng hành tốt về an toàn thông tin là một đối tác giàu tri thức, có năng lực về con người và công cụ để phản ứng nhanh nhạy với mối nguy, đồng thời có tính cam kết cao, chi phí hiệu quả để có thể đi cùng nhau lâu dài. VCS có đủ 4 yếu tố này”, ông Hải khẳng định.
Doãn Phong
" alt=""/>VCS đồng hành cùng doanh nghiệp Việt nâng cao năng lực an toàn thông tinNhiệm vụ chính của Tổng Công ty Công nghiệp Công nghệ cao Viettel là tập trung vào hai lĩnh vực công nghiệp quốc phòng và công nghiệp điện tử viễn thông.
Lĩnh vực nghiên cứu, sản xuất của Viettel đã bước sang năm thứ 9 và trải qua 3 giai đoạn. Giai đoạn 1, từ năm 2011-2013, tập trung nghiên cứu các nền tảng, công nghệ lõi, xây dựng quy trình để định hình các dòng sản phẩm và bước đầu chế tạo thử nghiệm sản phẩm. Giai đoạn 2, từ năm 2014-2016,từ chỗ thuần túy nghiên cứu, Viettel đã có những sản phẩm bán được cho các đơn vị trong nước. Từ năm 2017 đến nay, Viettel thực hiện chuẩn hóa hệ thống quy trình theo quy chuẩn quốc tế, làm chủ công nghệ lõi và bước đầu đưa các sản phẩm ra thị trường thế giới.Cách làm của Viettel là làm chủ toàn bộ các khâu nghiên cứu – thiết kế - chế tạo với quy trình bảo mật tuyệt đối.
Đến nay, trong lĩnh vực công nghệ cao Viettel đã nghiên cứuchế tạo thành công 78 sản phẩm, làm chủ 68 công nghệ lõi với 111 sáng chế. Tổng doanh thu từ sản phẩm công nghệ cao đến năm 2018đạt 1,05 tỷ USD.
![]() |
Thiếu tướng Lê Đăng Dũng, quyền Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel phát biểu tại Lễ ra mắt. |
Thiếu tướng Lê Đăng Dũng, quyền Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel, khẳng định mục tiêu đến 2030 Viettel sẽ đứng trong TOP 10 các doanh nghiệp viễn thông - công nghệ thông tin lớn nhất trên thế giới.
“Chỉ bằng việc làm chủ công nghệ lõi thì một quốc gia mới có thể trở thành một quốc gia phát triển và tiên tiến. Tổng công ty Công nghiệp Công nghệ cao Viettel đã, đang và sẽ là một nhân tố quan trọng trong việc đóng góp vào quá trình hiện đại hóa quân đội, từng bước xây dựng được hạ tầng đồng bộ, hiện đại và nguồn lực mạnh cho phát triển công nghiệp quốc phòng và công nghiệp quốc gia đưa Việt Nam ra khỏi bẫy thu nhập trung bình và trở thành nước phát triển”, ông Lê Đăng Dũng khẳng định.
Việc thành lập Tổng Công ty Công nghiệp Công nghệ cao Viettel đánh dấu giai đoạn phát triển thứ tư của Viettel, trở thành Tập đoàn Công nghiệp Công nghệ cao với 3 nền công nghiệp mũi nhọn: Công nghiệp quốc phòng, công nghiệp điện tử viễn thông, công nghiệp an ninh mạng, đi đầu trong tiến trình “Make in Vietnam”, đưa các sản phẩm: quốc phòng, lưỡng dụng, công nghệ mạng ra thị trường quốc tế.
Các sản phẩm Viettel đã nghiên cứu, sản xuất: Về lĩnh vực dân sự: - Hệ thống tính cước thời gian thực vOCS, - Hệ thống tổng đài chuyển mạch cho mạng 3G vMSC, - Hệ thống tổng đài tin nhắn vSMSC, - Trạm thu phát 4G - eNodeB, - Tổng đài mạng lõi 4G vEPC. - Hệ thống nhạc chuông chờ vCRBT - Thiết bị đầu cuối và thiết bị phụ trợ như: Điện thoại di động bảo mật, thiết bị đầu cuối cố định băng rộng cáp quang ONT, thiết bị truyền dẫn Site Router.
Về lĩnh vực quốc phòng: - Máy thông tin quân sự bảo đảm thông tin liên lạc cả trên bộ, trên không và trên biển. - Hệ thống cảnh giới vùng trời Quốc gia. - Hệ thống radarcông nghệ số ứng dụng AI trong bài toán xử lý, hiển thị mục tiêu và nhiễu. - Hệ thống mô hình mô phỏng phục công tác huấn luyện chiến đấu. - Hệ thống Quang điện tử hỗ trợ quan sát, giám sát, trinh sát và chỉ thị mục tiêu sử dụng công nghệ ảnh nhiệt (thermal imaging). |
H.P.
" alt=""/>Ra mắt Tổng Công ty công nghiệp công nghệ cao Viettel