Nhận định, soi kèo Al Qadsiah vs Al Khaleej, 21h25 ngày 29/11: Cửa trên thắng thế
相关文章
- 、
-
Nhận định, soi kèo Petrolul vs Botosani, 22h00 ngày 14/3: Cửa trên ‘ghi điểm’ -
Số lượng các thiết bị được kết nối với internet sẽ lên 30 tỷ thiết bị trong năm 2020Ở thời điểm hiện tại, số lượng các thiết bị được kết nối với internet đã vào khoảng 11 - 12 tỷ, và theo dự đoán của IHS, con số này sẽ lên tới 30 tỷ trong năm 2020. Khối lượng thông tin khổng lồ đó rõ ràng sẽ cần một hệ thống thu thập và xử lý một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả để mang lại giá trị cho người dùng.
Đó chính là khi Trí tuệ Nhân tạo - AI, cùng với Big Data và IoT, trở thành cánh tay phải của ngành công nghiệp điện tử. Xu hướng sử dụng Máy học và AI trong các hệ thống xử lý dữ liệu đã và đang là trọng tâm của ngành trên toàn thế giới. Không chỉ vậy, AI cũng đang góp phần lớn trong quá trình thay đổi thế giới ở nhiều ngành khác, từ giáo dục, tài chính và cả doanh nghiệp. AI có thể giúp sinh viên học tập tốt hơn, giúp giáo viên theo dõi sự phát triển của học sinh sát sao; giúp các ngân hàng xử lý yêu cầu của khách hàng nhanh chóng hơn và giúp các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, phát triển sản phẩm hiệu quả hơn.
Môi trường để AI hoạt động cũng đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Theo Kevin Scott, CTO của Microsoft, sức mạnh của các vi xử lý đã tăng khoảng 10 lần chỉ trong 5 năm vừa qua, và sẽ còn tiếp tục tăng nữa trong vòng 8 năm tới. Đây chính là chìa khóa biến AI trở thành nhân tố quan trọng nhất của cuộc chơi IoT. Hiện Trung Quốc đã vượt qua Mỹ về số lượng trí tuệ nhân tạo. 48% AI đầu tư về Starup là từ Trung Quốc. Vậy trong hoàn cảnh đó, Việt Nam phải làm gì? Nguồn nhân lực chất lượng cao, hiểu biết về AI là yếu tố cần thiết để có thể ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào các ngành công nghiệp.
Việc ứng dụng cụ thể và phát triển công nghệ 4.0 tại Việt Nam như thế nào cũng là đề tài được các bạn sinh viên và các bạn đi làm nhiệt tình trao đổi và đặt câu hỏi. Phần chia sẻ của anh Phạm Quốc Vinh khá hữu ích cho các bạn trẻ mới bắt đầu dấn thân vào lĩnh vực công nghệ. Anh cho rằng, các bạn trẻ mới ra trường hãy chịu khó làm việc trước khi đòi hỏi quá nhiều, chăm chỉ và cố gắng từng ngày, quan trọng tiếp đó là phải có tinh thần học hỏi lắng nghe, tự biết nghiên cứu tìm tòi, và đặc biệt là thái độ. Thái độ quan trọng hơn trình độ, thái độ tốt sẽ quyết định một tương lai tốt… Đó chính là lý do ngay từ đầu, các bạn trẻ cần xác định rõ lý tưởng, con đường đi mình lựa chọn.
"> -
Facebook ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của chúng ta như thế nào?Có thể bạn đã biết, và các nhà nghiên cứu cũng đã xác nhận, đó chắc chắc không phải là thói quen tốt đối với tâm lý đám đông của chúng ta. Viện Nhi khoa Mỹ đã từng cảnh báo về những tác động tiêu cực của mạng xã hội lên trẻ nhỏ và lứa tuổi teen, bao gồm các hành vi cyber-bully (bắt nạt qua mạng) và "trầm cảm Facebook". Nhưng nhiều thế hệ người trưởng thành có lẽ cũng gặp phải những nguy cơ như vậy.
Các nghiên cứu đã cho thấy mạng xã hội thực ra không tốt cho sức khoẻ tâm thần của chúng ta, và đôi lúc nó còn gây khá nhiều tác hại nữa.
Facebook và mạng xã hội gây nghiện mạnh
Các chuyên gia vẫn chưa hoàn toàn đồng tình về việc liệu chứng nghiện Internet có phải là một thứ có thật hay không, chứ chưa nói đến chứng nghiện mạng xã hội. Nhưng có một vài chứng cứ cho thấy cả hai thứ trên đều tồn tại. Một nghiên cứu đánh giá thực hiện bởi Đại học Nottingham Trent đã nhìn lại một nghiên cứu trước đây về các đặc tính tâm lý học, nhân cách và việc sử dụng mạng xã hội. Các tác giả kết luận rằng "nếu nói rằng có hội chứng 'Rối loạn nghiện Facebook' thì cũng hợp lý... bởi những người sử dụng mạng xã hội quá nhiều thường có các biểu hiện phù hợp với các tiêu chí định nghĩa việc 'nghiện', như lơ là cuộc sống cá nhân, lo lắng về mặt tâm thần, muốn trốn thoát, có những trải nghiệm thay đổi tâm trạng, tỏ ra khoan dung và muốn che giấu các hành vi nghiện" (Họ còn phát hiện ra động lực khiến người ta dùng mạng xã hội quá nhiều còn khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm tính cách - người hướng nội và người hướng ngoại sử dụng mạng xã hội vì những lý do khác nhau, người có xu hướng tự yêu bản thân cũng vậy).
Và các nghiên cứu đã xác nhận người ta thường có xu hướng trải qua một quá trình gọi là "rút lui": một nghiên cứu vài năm trước của Đại học Swansea cho thấy nhiều người đã gặp phải những triệu chứng tâm lý của việc "rút lui" khi họ ngừng sử dụng mạng xã hội (và cả ngừng sử dụng Internet nữa). Nghiên cứu tiếp theo tiếp tục cho thấy khi người ta ngừng sử dụng, họ còn gặp phải những hiệu ứng sinh lý nhỏ như dễ nhận thấy. Tác giả nghiên cứu, Phil Reed, cho biết: "Chúng tôi đã biết từ lâu rằng những người quá lệ thuộc vào các thiết bị kỹ thuật số sẽ rơi vào tình trạng lo lắng khi ngừng sử dụng chúng, nhưng nay chúng tôi có thể thấy rằng những hiệu ứng tâm lý kia còn đi kèm với những thay đổi sinh lý thực sự". Liệu điều này có đúng với việc sử dụng mạng xã hội hay không vẫn chưa rõ ràng, nhưng nhiều bằng chứng riêng rẽ cho thấy có lẽ là đúng.
Mạng xã hội làm gia tăng buồn bã, giảm hạnh phúc
Chúng ta càng dùng mạng xã hội nhiều, chúng ta càng ít hạnh phúc. Một nghiên cứu được thực hiện vài năm trước phát hiện ra rằng sử dụng Facebook có mối liên hệ với việc con người có ít khoảnh khắc hạnh phúc và ít hài lòng với cuộc sống hơn - trong một ngày, bạn sử dụng Facebook càng nhiều, hai yếu tố vừa nêu sẽ càng giảm đi. Các tác giả nhận định nguyên nhân của điều này có lẽ là do Facebook làm khơi gợi nhận thức biệt lập xã hội theo một cách không giống với những hoạt động cũng được chúng ta thực hiện một mình khác. "Nhìn qua thì, Facebook mang lại một nguồn tài nguyên vô giá để thoả mãn những nhu cầu bằng cách cho phép mọi người kết nối tức thì. Thay vì làm tăng hạnh phúc, như việc thường xuyên tương tác với các mạng xã hội thiên về "ngoại tuyến" vẫn làm, thì tương tác với Facebook lại mang đến kết quả ngược lại cho những người trưởng thành trẻ tuổi - nói không ngoa, Facebook có thể phá hoại hạnh phúc".
Trên thực tế, một nghiên cứu khác phát hiện ra rằng sử dụng mạng xã hội có mối liên hệ đến việc con người cảm thấy càng cô lập với xã hội hơn. Nhóm nghiên cứu đã xét mức độ sử dụng 11 trang mạng xã hội của mọi người, bao gồm Facebook, Twitter, Google+, YouTube, LinkedIn, Instagram, Pinterest, Tumblr, Vine, Snapchat và Reddit, và từ đó tìm mối tương quan với cảm giác bị cô lập với xã hội của họ. Không hề ngạc nhiên, hóa ra con người càng dành nhiều thời gian vào các trang đó, họ càng cảm thấy bản thân bị cô lập với xã hội. Và cảm giác bị cô lập với xã hội là một trong những điều tệ nhất đối với chúng ta, cả về tinh thần lẫn thể chất.
So sánh cuộc sống của chúng ta với người khác là hành vi không tốt cho sức khỏe tâm thần
Một phần trong số các lý do Facebook khiến người ta cảm thấy bị cô lập về mặt xã hội (dù có lẽ họ không thực sự như vậy) là bởi yếu tố "so sánh". Chúng ta rơi vào cái bẫy tự so sánh bản thân mình với người khác khi lướt Facebook, và đưa ra những đánh giá chúng ta so với họ như thế nào. Một nghiên cứu về việc chúng ta so sánh mình với các bài đăng khác, theo hướng "lên" hoặc "xuống" - tức cảm giác chúng ta tốt hơn hay tệ hơn bạn bè mình - cho thấy cả hai loại so sánh đều khiến người ta cảm thấy tệ hơn, một kết quả rất ngạc nhiên khi mà ngoài đời thực, chỉ có so sánh theo hướng "lên" (cảm thấy người khác có gì đó tốt hơn bạn) mới khiến người ta cảm thấy tệ. Nhưng trong thế giới của mạng xã hội, có vẻ như bất kỳ loại so sánh nào cũng có liên hệ với các triệu chứng trầm cảm.
Điều đó có thể dẫn đến sự ganh tị - dẫn chúng ta vào một vòng luẩn quẩn
Không hề lạ khi yếu tố "so sánh" nói trên dẫn đến sự ganh tỵ. Hầu hết mọi người sẽ thừa nhận rằng việc xem hình ảnh về những chuyến đi chơi đầy thú vị hay những đứa nhóc ngoan ngoãn của người khác là rất dễ gây đố kỵ. Các nghiên cứu đã cho thấy sử dụng mạng xã hội có thể kích thích cảm giác ganh tỵ. Cụ thể, "những việc gây đố kỵ diễn ra rất nhiều trên Facebook, cho thấy bằng chứng Facebook là nơi sinh sôi nảy nở của những cảm giác không mấy tốt đẹp". Các nhà nghiên cứu nói thêm rằng cảm giác đó có thể trở thành một vòng luẩn quẩn: cảm giác ganh tỵ có thể khiến một người muốn biến cuộc đời của chính họ tốt hơn, và đăng tải các bài viết gây đố kỵ của chính họ, vô tình tạo ra vòng lặp vô tận của việc đăng bài - cảm thấy ganh tỵ.
Một nghiên cứu khác tập trung vào sự kết nối giữa đố kỵ và trầm cảm trong khi dùng Facebook, và phát hiện ra rằng sự đố kỵ là cầu nối giữa Facebook và tình trạng trầm cảm. Khi sự đố kỵ được kiểm soát, Facebook ít gây trầm cảm hơn. Do đó có lẽ sự đố kỵ chính là nguyên nhân chính trong mối quan hệ Facebook - tình trạng trầm cảm.
Chúng ta chìm trong ảo tưởng nghĩ rằng mạng xã hội giúp được mình
Một phần trong vòng lặp không lành mạnh kia là chúng ta luôn tìm về với mạng xã hội, dù nó khiến chúng ta cảm thấy không tốt. Nguyên nhân có lẽ là bởi một khái niệm gọi là "lỗi dự báo": như thuốc phiện, chúng ta nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề sẽ có ích, nhưng nó thực ra khiến chúng ta cảm thấy tệ hơn, xuất phát từ một lỗi trong khả năng dự báo phản ứng của chính chúng ta. Một nghiên cứu tập trung việc người ta cảm thấy thế nào sau khi dùng Facebook và họ nghĩ mình sẽ cảm thấy thế nào nếu dùng Facebook. Như các nghiên cứu khác, những người tham gia hầu hết luôn cảm thấy tệ hơn sau khi dùng mạng xã hội này, so với những người tham gia các hoạt động khác. Nhưng một thử nghiệm tiếp sau cho thấy người ta nhìn chung tin rằng họ cảm thấy tốt hơn sau khi dùng Facebook, không phải tệ hơn. Tất nhiên, đây không phải là một trường hợp điển hình, mà có vẻ giống như một mô hình trong các loại nghiện khác.
Nhiều bạn trên mạng xã hội không có nghĩa bạn có quan hệ xã hội tốt
Vài năm trước, một nghiên cứu phát hiện ra rằng có nhiều bạn hơn trên mạng xã hội không nhất thiết có nghĩa bạn có một cuộc sống xã hội tốt hơn - có một lượng bạn bè nhất định mà bộ não của chúng ta có thể xử lý được, và nó đòi hỏi tương tác xã hội thực thụ (không phải ảo) để có thể duy trì những tình bạn đó. Do đó, không có chuyện bạn giao thiệp nhiều trên Facebook tức bạn có quan hệ xã hội tốt ngoài đời thực. Bởi sự cô đơn có liên quan đến vô số các vấn đề sức khỏe và sức khỏe tâm thần (bao gồm cả...chết sớm), quan trọng là bạn phải có được sự hỗ trợ của bạn bè từ thế giới bên ngoài. Thời gian dành cho bạn bè ảo không mang lại hiệu ứng trị liệu như thời gian dành cho bạn bè thật.
Tất cả những điều trên không có ý nói mạng xã hội không có lợi ích gì - hiển nhiên, nó giúp chúng ta kết nối cùng nhau từ những khoảng cách rất xa, và giúp chúng ta tìm kiếm những người đã "mất dấu" nhiều năm. Nhưng lướt mạng xã hội khi bạn có chút thời gian rảnh, hay tệ hơn là cần điều gì đó để khích lệ tinh thần, là một ý tưởng rất tệ. Và các nghiên cứu đã cho thấy tạm ngừng dùng Facebook có thể giúp tăng cường sức khỏe tâm thần. Nếu bạn dũng cảm, hãy thử ngừng một thời gian và xem tình hình ra sao. Và nếu bạn quyết định tiếp tục dùng Facebook, thì ít nhất cũng nên dùng có giờ giấc.
Theo Forbes
"> -
Các bộ vi xử lý mới của Intel đã được trang bị Tiện ích Bảo vệ Phần mềm (SGX) để đối phó với Spectre và Meltdown. SGX cho phép các chương trình phần mềm hoạt động trên những phân vùng an toàn hơn của vi xử lý. Những phân vùng này được tạo ra dựa trên từng nhu cầu cụ thể và sở hữu bộ nhớ riêng, tách biệt hoàn toàn với các phần mềm hệ thống khác như hệ điều hành hay Hypervisor (phần mềm chịu trách nhiệm chạy nhiều máy ảo trên cùng một hệ thống). Lỗ hổng bảo mật nguy hiểm Spectre có biến thể mớiIntel SGX sẽ tạo ra những phân vùng an toàn với bộ nhớ riêng biệt, tránh các hacker lợi dụng Spectre/Meltdown để khai thác thông tin trên máy tính người dùng. Sự ra đời của SGX cũng như hàng loạt bản cập nhật hệ điều hành khác của Intel đã phần nào khiến cho người dùng tạm thời yên tâm hơn với những thiết bị máy tính của mình. Thế nhưng, ngay khi nỗi ám ảnh Spectre - Meltdown vừa lắng xuống thì một “người anh em” của bộ đôi này lại bất ngờ xuất hiện với những hiểm họa khôn lường.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Ohio đã phát hiện ra một biến thể mới của lỗ hổng Spectre với tên gọi SgxPectre cùng khả năng dễ dàng “qua mặt” những phân vùng an toàn trên phần cứng mà SGX tạo ra. Bên cạnh đó, báo cáo của họ cũng chỉ ra rằng Intel SGX không phải là nạn nhân duy nhất của lỗ hổng bảo mật này.
Bình thường các bộ vi xử lý mới của Intel sẽ cố gắng dự đoán hành động tiếp theo mà phần mềm muốn thực hiện. Nhưng SgxPectre có khả năng lợi dụng điều này, khai thác và đưa thông tin từ những luồng dự đoán đó ra khỏi phân vùng an toàn mà SGX đã tạo ra.
Đội ngũ nghiên cứu của Đại học Ohio đã gửi bản báo cáo của họ của Intel. Đại diện của Intel cho biết, chúng tôi đã nhận được tài liệu nghiên cứu từ Đại học Ohio và trước đó, chúng tôi cũng đã cung cấp thông tin cũng như hướng dẫn trực tuyến về tình trạng Intel SGX có thể bị tấn công thông qua những lỗ hổng bảo mật phụ (biến thể của Spectre và Meltdown).
Intel sẽ ra mắt bản cập nhật bộ công cụ phát triển phần mềm mới vào ngày 16/3 sắp tới để giải quyết triệt để Spectre, Meltdown cũng như các lỗ hổng biến thể khác. Một bản cập nhật bộ công cụ phát triển phần mềm dành cho các nhà phát triển ứng dụng SGX - dự kiến sẽ là phương pháp hiệu quả nhất để khắc phục tình trạng trên. Người dùng nên sử dụng những bản cập nhật mới nhất của bộ công cụ này.
Bộ công cụ phát triển phần mềm SGX mới (SDK) cùng với các microcode cập nhật dành cho bộ vi xử lý được coi là biện pháp tối ưu nhất để vô hiệu hóa SgxPectre trước khi lỗ hổng này phát triển rộng rãi.
H.N. - Nguyễn Thị Vân Anh - Minh Thuý (tổng hợp)
Apple thừa nhận các thiết bị iOS dính lỗ hổng Meltdown
Meltdown là lỗ hổng bảo mật mà rất nhiều các ông lớn công nghệ đang phải đau đầu đối phó.
">