- Việc một học sinh bị tai nạn (bỏng) trong giờ học do bất cẩn của bạn bè mà nhà trường không có những hành xử thích hợp cho thấy chúng ta đang thiếu quy trình quản lý rủi ro trong trường học và cho học sinh. |
Vết bỏng của học sinh trường THPT Phan Đình Phùng (Hà Nội) trong giờ làm thí nghiệm hóa học. |
Trong cuộc sống luôn tồn tại rủi ro, dù chúng ta luôn cố gắng phòng ngừa đến đâu.
Sự khác nhau chỉ ở chỗ, tổ chức/cá nhân nào có tính chuyên nghiệp và đạo đức trong phòng ngừa và xử lý rủi ro mà thôi.
Rất tiếc, theo quan sát của cá nhân tôi hơn 25 năm đi học việc có quy trình quản lý rủi ro trong trường học ở Việt Nam hầu như chưa được mọi người coi trọng.
Do vậy, khi có chuyện xảy ra, đa phần sẽ do trường, giáo viên và học sinh có liên quan tự “hòa giải” hoặc “dàn xếp”, mà không dựa trên bất kỳ nguyên tắc và quy trình nào đã được xây dựng và thông tin cho các bên biết.
Xin có một vài gợi ý cho các trường học (đặc biệt từ mầm non và phổ thông), khi các em dưới 18 tuổi và vẫn đang là trẻ vị thành niên, chúng ta nên tìm hiểu, xây dựng, và thực hiện quy trình quản lý rủi ro trong trường học, để bảo vệ môi trường an toàn – lành mạnh và có tính khích lệ các tinh thần cộng đồng của học sinh trong trường như sau:
1. Trường cần có người hoặc tổ chuyên trách về an toàn trong học tập và sinh hoạt cho toàn trường.
Đây là công việc rất quan trọng, vì nơi làm việc và sinh hoạt tập thể, an toàn, văn minh, có tính nhân bản và tính cộng đồng tốt sẽ tạo ra môi trường học tập tốt cho học sinh, cũng như hỗ trợ thầy cô làm việc hiệu quả hơn.
Theo đó, trường cần có cán bộ hoặc tổ chuyên trách tập trung thực hiện công việc này. Họ sẽ có rất nhiều việc để đạt được mục tiêu trường học an toàn – văn minh – nhân bản và cộng đồng.
2. Thường xuyên khảo sát môi trường, cơ sở vật chất, cơ sở sinh hoạt chung của trường để tìm ra những ‘nguy cơ” có thể “không an toàn” cho học sinh, cho giáo viên và cho mọi người khi đến làm việc và học tập tại trường.
Để phòng ngừa rủi ro và chuẩn bị sẵn những phương án, quy trình xử lý nếu rủi ro xảy ra.
Như trong trường hợp của em học sinh bị tai nạn trong phòng thí nghiệm, nếu có quy trình quản lý và hoạt động trong phòng thí nghiệm, các học sinh đã tự ý thức được những việc gì cần làm ngay.
Chẳng hạn: Liên lạc với người có trách nhiệm của trường, sơ cứu nếu bạn ở trong tình trạng có thể, gọi liên hệ cấp cứu, viết báo cáo tường trình sự việc ngay sau khi sự việc xảy ra, xem xét lại quy chế phòng thí nghiệm để xác định rõ mình có trách nhiệm đến đâu, và hoàn toàn tương tự như vậy đối với giáo viên và nhà trường.
Theo nghiên cứu của Tổ chức An toàn Lao động Thế giới, việc tai nạn hoặc rủi ro xảy ra trong lao động sẽ ở mức rất thấp nếu trường hợp những bên có liên quan có kiến thức, nắm rõ và có thực hành, cập nhật thông tin thường xuyên.
3. Xây dựng Quy chế An Toàn – Văn Minh – Nhân bản - Cộng đồng tốt cho trường, và được phổ biến cho học sinh, phụ huynh và cán bộ trường.
Như đã nói ở trên, mọi vấn đề trong trường nên có quy định, quy chế và văn bản rõ nhằm đảm bảo khả năng truyền tải đến cho học sinh, phụ huynh và cán bộ trường nắm bắt.
Những vụ việc tai nạn trong trường hay khi đi dã ngoại xảy ra với học sinh, phần nhiều do chủ quan, do thiếu cẩn trọng, do không biết cách ứng xử phù hợp để ngăn ngừa rủi ro.
Theo đó, trong quá trình xây dựng quy chế an toàn – văn minh – nhân bản – cộng đồng tốt cho mọi người trong trường, cán bộ chuyên môn hay tổ chuyên trách có thể phác thảo những nét chính, chia sẻ và lấy ý kiến của học sinh, giáo viên và phụ huynh, nhằm đảm bảo tất cả mọi người trong trường đều có thể tham gia góp ý kiến và nêu ra đề xuất mà mình thấy hữu ích nhất.
Điều quan trọng nhất, chúng ta không mong là sẽ có một quy chế hoàn hảo, mà ở ý thức cộng đồng, ý thức làm chủ và trách nhiệm của tất cả các thành viên của trường tham gia xây dựng văn bản, nội quy của trường.
Theo đó, khi đã ban hành, ý thức tự giác thực hiện, tự nhắc nhau thực hiện, chủ động tìm kiếm, và đóng góp ý kiến làm cho trường lớp càng an toàn hơn, văn minh hơn sẽ được phát huy.
4. Trong trường hợp có những hoạt động đặc biệt (như làm viêc trong phòng thí nghiệm, đi sinh hoạt ngoại khóa, chương trình cộng đồng), tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể, cần có các quy định rõ về quy trình và cách thức hoạt động trong các môi trường cụ thể đó (như trong phòng thí nghiệm, cần có quy định làm việc và học tập trong phòng thí nghiệm, hoặc trong thư viện phải có quy chế thư viện).
Tất cả những quy định này cần được thông tin, cập nhật và đảm bảo học sinh cũng như phụ huynh phải nắm được trong suốt thời gian học trong trường hoặc khi đi sinh hoạt ở ngoài trường.
Điều quan trọng mà tất cả chúng ta, đặc biệt là ban giám hiệu trường và giáo viên phải luôn ý thức được, “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, và học sinh chúng ta vẫn chỉ là những đứa con nhỏ, đang cần chúng ta chỉ bảo, dạy dỗ và nâng đỡ phát triển nhân cách.
- Độc giảNguyễn Thị Lan Hương
" alt="Thiếu quy trình quản lý rủi ro trong trường học"/>
Thiếu quy trình quản lý rủi ro trong trường học
- Mối liên quan giữa lịch sử và chính trị là vấn đề lớn. Các cơ quan lãnh đạo luôn nhìn vào lịch sử để nhận ra bài học về xây dựng bảo vệ đất nước, đối ngoại, ứng xử với vấn đề của thế giới. |
Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng phát biểu tại hội nghị. Ảnh: XT. |
Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng đã khẳng định như vậy tại buổi thông tin khoa học "Một số thành tựu mới trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam" tổ chức sáng 22/2.
Theo Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, những gì các nhà sử học băn khoăn cũng là những vấn đề mà người làm công tác tuyên giáo phải đối mặt, trao đổi để giải quyết, thậm chí cũng tranh luận gay gắt với nhau.
Trưởng ban Tuyên giáo cũng mong muốn, bộ Lịch sử Việt Nam đang được biên soạn sẽ trở thành bộ sử có tính chất thống nhất, chính thống thể hiện sự nhìn nhận khách quan, công tâm, trung thực đối với sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử, diễn tiến của cả quá trình lịch sử của dân tộc.
“Việc tranh luận là cần thiết để giải quyết vấn đề và cũng có thể coi đó như một phần không thể thiếu, tiến tới góp phần cho bộ sử hoàn thành, khi ra đời nhận được sự đồng thuận của nhân dân” – Trưởng ban Tuyên giáo khẳng định.
Đã đến lúc làm rõ công tội của nhà Nguyễn
Trong bài trình bày trước đó, GS Phan Huy Lê điểm lại nhiều thành tựu nghiên cứu mới của giới sử học Việt Nam theo suốt chiều dài lịch sử từ thời cổ đại cho tới hiện nay.
Chẳng hạn về thời kỳ cổ đại, chúng ta có các nghiên cứu về văn hóa Sa Huỳnh và Óc Eo của các dân tộc thiểu số, hay thời kỳ Bắc thuộc đã có phát hiện mới về cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan…
Nhiều hiện tượng, sự kiện, nhân vật trong lịch sử cũng đã được nhìn nhận lại, như công tội đối với nhà Hồ, nhà Mạc, hay đặc biệt là với nhà Nguyễn và các phong trào đầu thế kỷ 20.
GS Phan Huy Lê dành khá nhiều thời gian để nói về “công - tội” của nhà Nguyễn. Ông cho biết, vừa qua đã có một cuộc hội thảo quy tụ tới 500 nhà khoa học trong cả nước về nhà Nguyễn, tranh luận khá gay gắt.
Theo GS Phan Huy Lê, thời kỳ chúa Nguyễn có nhiều công lao tích cực phải nhìn nhận như việc khai phá phía nam, mở mang bờ cõi. Đến thời nhà Nguyễn đã có công khai phá Đồng bằng Sông Cửu Long.
Nhà Nguyễn cũng là triều đại đã định hình xong lãnh thổ của Việt Nam và cơ bản giống lãnh thổ Việt Nam hiện nay, từ cực Bắc tới Cà Mau, từ Tây Nguyên ra tới biển và quan trọng hơn cả là đã bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa.
“Công lao của nhà Nguyễn về phương diện này không ai có thể chối cãi” – GS Lê khẳng định. Ngoài ra, nhà Nguyễn cũng có vai trò trong việc thống nhất đất nước cũng như xây dựng hệ thống hành chính quốc gia chặt chẽ.
“Gia Long cũng là ông vua đầu tiên với tư cách là hoàng đế của Việt Nam công bố chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa. Trước đó, chúng ta đã thực thi chủ quyền nhưng chưa công bố” - lời GS Lê.
GS Phan Huy Lê cũng cho biết, việc triều Nguyễn đặt Hoàng Sa, Trường Sa trực tiếp dưới sự quản lý của triều đình trung ương cho thấy vị trí quan trọng của Hoàng Sa và Trường Sa đồng thời để lại kho tư liệu cục kỳ quý giá phục vụ việc tăng cườngcông bố chủ quyền đối với 2 quần đảo này.
GS cũng cho biết, trước đây, trong những bối cảnh lịch sử nhất định, chúng ta chủ yếu phê phán nhà Nguyễn, do đó, đã đến lúc phải nhìn rõ công tội của nhà Nguyễn.
“Nhìn nhận về lịch sử phải hết sức khách quan và chỉ những gì là khách quan của lịch sử mới tồn tại lâu dài được. Còn những điều mà trong một tình thế nào đó ta phải tôn vinh hoặc hạ thấp thì chỉ tồn tại trong điều kiện nhất định nào đó" - GS Phan Huy Lê nói.
"Sứ mạng cao cả nhất của sử học là làm thế nào để tạo nên được những trang sử trung thực, khách quan. Chỉ có sử liệu lịch sử thực sự mới có sức thu hút bạn đọc" - ông nói thêm.
 |
GS Phan Huy Lê phát biểu tại hội nghị. Ảnh: XT. |
Những khoảng trống lịch sử nguy hiểm
Theo Chủ tịch danh dự Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, hiện nay, nhận thức lịch sử chưa thực sự là toàn bộ và toàn diện.
Khi chúng ta viết lịch sử Việt Nam, vẫn chưa vượt qua được quan điểm truyền thống, nặng về lịch sử người Việt chứ chưa nhắc tới các dân tộc khác dù Việt Nam có tới 54 dân tộc.
Bên cạnh đó, trên cả nước, chỉ có lịch sử miền Bắc được trình bày ngọn nguồn từ thời nguyên thủy còn lịch sử của Nam Bộ thì chỉ mới bắt đầu từ thế kỷ 16. Toàn bộ thời gian trước đó chúng ta bỏ trống.
“Điều này đã tạo nên một khoảng trống lịch sử cực kỳ nguy hiểm” – GS Lê cho hay.
“Khoảng trống này dẫn đến nhận thức hết sức tuỳ tiện và đặc biệt nguy hiểm. Không ít người tận dụng cơ hội đó để đưa ra những luận điểm bất lợi cho chủ quyền lãnh thổ Việt Nam hiện nay” – GS nhận định.
Chủ tịch danh dự Hội Khoa học lịch sử Việt Nam kể, sau 1975 ông vào miền Nam thì có trí thức nói với ông rằng, họ băn khoăn vì sống ở miền Nam nhưng khi nhân dân hỏi không biết trả lời thế nào.
“Nếu nói từ thế kỷ 17 người Việt vào khai phá Nam Bộ thì người ta sẽ đặt câu hỏi ngược lại: Vậy lịch sử của Nam Bộ, của Sài Gòn trước đó thế nào? Không lẽ từ trên trời rơi xuống?” – GS Phan Huy Lê nói.
GS cho rằng, nhận thức như vậy là sai ở hai bình diện: Thứ nhất nước ta có 54 dân tộc anh em mà chỉ viết về lịch sử người Việt, gạt bỏ các dân tộc khác, không tôn trọng sự đóng góp của họ. Thứ hai, lịch sử của bất cứ quốc gia dân tộc nào đều phải xuất phát từ lãnh thổ hiện nay để viết sử chứ không thể từ một bộ phận nào hay từ một phía nào.
“Điều này chúng tôi phải tự nhân trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng và Nhà nước” – GS Lê bày tỏ.
Từ đó, GS Lê cho rằng, cần phải xác lập một nguyên lý mới trong nhận thức lịch sử: Đó là nhận thức toàn bộ và toàn diện về lịch sử Việt Nam.
Có thể tóm tắt là xuất phát từ lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã được khẳng định và được nhiều tổ chức quốc tế công nhận, tất cả những gì diễn ra trên lãnh thổ này, kể cả đất liền, hải đảo và hải phận đều là một bộ phận của lịch sử và văn hoá Việt Nam.
Vì vậy, lịch sử Việt Nam không chỉ là lịch sử của một bộ phận người Việt mà là lịch sử của tất cả các dân tộc nằm trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, trong đó bao gồm cả các dân tộc trước đây đã từng có nhà nước riêng như người Chăm, người Khmer.
"Tất cả các nền văn hoá đã từng tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam đều là di sản của văn hoá VN, đều là bộ phận tạo thành của văn hoá Việt Nam" - GS Phan Huy Lê nói.
GS cho rằng, nhận thức như vậy sẽ giải quyết được hàng loạt vấn đề từ lịch sử cổ đại cho tới hiện đại của Việt Nam.
Lịch sử hiện đại của chúng ta thiên về lịch sử chống ngoại xâm. Theo GS Lê, việc viết về lịch sử chống ngoại xâm nhiều là đúng vì có tới hơn một nửa thời gian tồn tại của nhà nước Việt Nam là chống ngoại xâm và đô hộ. Tuy nhiên, lịch sử Việt Nam không chỉ có chống ngoại xâm mà phải gồm cả lịch sử xây dựng đất nước.
Bên cạnh đó, việc trình bày lịch sử chống ngoại xâm cũng mới chỉ trình bày một mặt là mặt phía ta, mặt thắng lợi còn phía địch thì chưa được nghiên cứu một cách sâu sắc. Trong khi đó, việc trình bày lịch sử xây dựng đất nước vẫn còn nặng về chính trị.
Theo GS Phan Huy Lê, trong bộ Lịch sử Việt Nam đang được biên soạn, cần phải trình bày về lịch sử Việt Nam theo quan điểm đầy đủ, toàn diện. “Khuynh hướng hiện nay là lịch sử xã hội, đi vào cuộc sống của con người trong cộng đồng xã hội. Chúng ta có tới 54 dân tộc, điều này không dễ nhưng phải cố gắng làm được” – GS Lê nói. “Đó là tính toàn bộ và toàn diện của lịch sử”.
Lê Văn
" alt="Luôn nhìn vào lịch sử để nhận ra bài học xây dựng, bảo vệ đất nước"/>
Luôn nhìn vào lịch sử để nhận ra bài học xây dựng, bảo vệ đất nước