iPhone đời đầu đã trở thành hình mẫu cho smartphone hiện đại. iPhone không chỉ là một công nghệ mang tính cách mạng và còn vô cùng dễ sử dụng. Khác với PDA hay các thiết bị “thông minh” khác ra đời trước đó, người dùng chỉ cần sử dụng ngón tay để điều khiển iPhone. Đúng như cố nhà sáng lập Apple Steve Jobs đã nói, “Ai cần bút cảm ứng cơ chứ”?
iPhone cũng rất mạnh mẽ so với các điện thoại cùng thời. Vào đầu những năm 2000, có nhiều thiết bị kết nối dữ liệu di động nhưng hầu như không duyệt web tối ưu. Tính năng của chúng còn hạn chế, chủ yếu chỉ dùng để tải nhạc chuông. iPhone đã mang đến trải nghiệm duyệt web như trên desktop.
Có thể nói, sẽ không có smartphone nếu không có iPhone.
5. iPhone 3G (2008)
Nếu xem iPhone 2007 là một khái niệm (concept), iPhone 3G là thiết bị đích thực mà bạn cần. Nếu không kết nối Wi-Fi, iPhone đời đầu chỉ mắc kẹt với 2G. Vào năm 2008, 3G là mạng dữ liệu tốc độ cao. Nhờ 3G, iPhone 3G có thể đạt tốc độ tối đa 3Mbps, nhanh gấp 30 lần tốc độ 0,1 Mbps trên iPhone đời đầu.
Apple cũng giới thiệu AppStore trên iOS 2.0, cho phép mọi người tải ứng dụng của bên thứ ba, điều cơ bản khiến điện thoại trở thành điện thoại thông minh.
4. iPhone 4 (2010)
iPhone 4 là mẫu iPhone đẹp mắt đầu tiên của Apple. Nó sử dụng ngôn ngữ thiết kế tối giản và phẳng trứ danh của Apple. Thân máy được bao quanh bằng khung nhôm, ôm lấy mặt kính ở cả trước và sau. Đây là bước tiến lớn đối với iPhone thế hệ trước và nhiều người vẫn xem đây là mẫu iPhone đẹp nhất.
Apple kết hợp thiết kế mới với màn hình Retina đầu tiên trong lịch sử. Nó có mật độ điểm ảnh cao chưa từng có, do đó, dù là gửi tin nhắn, chơi game hay xem phim, iPhone 4 đều khác biệt.
3. iPhone 6S (2015)
Một trong những tính năng ăn khách nhất của iPhone là camera và iPhone 6S đã đưa camera lên đẳng cấp khác. Đây là mẫu iPhone đầu tiên của Apple có khả năng quay video 4K, cung cấp nhiều công cụ hơn cho người dùng giải phóng sự sáng tạo. Apple cũng nâng cấp thân máy bằng nhôm Series 7000 bền hơn, giúp chấm dứt bê bối Bendgate trên iPhone 6.
iPhone 6S chạy hệ điều hành iOS 9, vẫn được hỗ trợ iOS mới cho đến năm 2021 với iOS 15. Bản thân việc một hệ điều hành cũ vẫn hoạt động trên chiếc điện thoại 7 năm tuổi đã vô cùng ấn tượng.
2. iPhone X (2017)
iPhone X đánh dấu bước ngoặt thiết kế của Apple. Phần viền trên và dưới đã thu hẹp đáng kể, mang đến thiết kế gần như không viền. Nút Home vật lý bị loại bỏ, thay bằng thao tác vuốt từ dưới lên để điều khiển.
Đây cũng là iPhone đầu tiên sử dụng Face ID để mở khóa máy hay ứng dụng bằng gương mặt. Nó đặt ra nền tảng cho các mẫu iPhone sau này, đồng thời thiết lập tiêu chuẩn mới cho giá bán. Khi mới xuất hiện, nó đã gây tranh cãi khi là iPhone giá 1.000 USD đầu tiên.
1. iPhone 12 (2020)
Khi nhắc tới 5G, Apple khá chậm chân so với các đối thủ. Mẫu smartphone 5G đầu tiên ra mắt thị trường năm 2019 nhưng đến cuối năm 2020, iPhone 12 mới lên kệ. Dù vậy, Apple đã kiên nhẫn chờ đợi cho tới khi 5G phổ biến hơn và có tác động lớn hơn trên toàn cầu. Nó giúp người dùng tận dụng được ưu điểm của tốc độ kết nối nhanh hơn. iPhone 12 cũng mang công nghệ sạc MagSafe đến với iPhone.
Du Lam (Theo Makeuseof)
Nghiên cứu mới chỉ ra iPhone của Apple chiếm 4 vị trí đầu bảng của danh sách smartphone bán chạy nhất thế giới tháng 4.
" alt=""/>6 mẫu iPhone quan trọng nhất mọi thời đạiXem phần 1
Dưới đây là phần 2 của bài viết.
“Thành quả của sự đầu tư”– cụm từ mà ngày nay bạn thường nghe tới khi người ta nói về đại học. Có một điều mà có vẻ như chưa có ai đặt câu hỏi là “thành quả” ở đây ý nói về điều gì. Có phải chỉ là kiếm được nhiều tiền hơn? Hay mục đích duy nhất của giáo dục là giúp bạn kiếm được việc làm? Vậy tóm lại, học đại học để làm gì?
Thứ đầu tiên mà đại học mang đến cho bạn là dạy bạn cách nghĩ. Nó không đơn giản chỉ là phát triển những kỹ năng tư duy ứng với mỗi ngành học. Đại học là cơ hội để bước ra ngoài thế giới khoảng vài năm, không phải bận tâm tới thành kiến của gia đình hay sự cấp bách của việc phải có một sự nghiệp. Bạn được phép chiêm ngưỡng mọi thứ từ xa.
Tuy nhiên, học cách suy nghĩ chỉ là bước đầu tiên. Có một điều mà bạn cần phải suy nghĩ, đó là: xây dựng bản thân. Khái niệm này nghe có vẻ lạ. Nhà văn người Mỹ David Foster Wallace từng nói “Chúng ta dạy họ rằng bản thân là thứ mà bạn nghiễm nhiên có”. Nhưng nó chỉ tồn tại thông qua hành động thiết lập giao tiếp giữa trí óc và trái tim, giữa trí óc và trải nghiệm – những thứ khiến bạn trở thành một cá nhân, một thực thể duy nhất – một tâm hồn. Nhiệm vụ của đại học là giúp bạn bắt đầu làm điều đó.
Đại học không phải là cơ hội duy nhất để học cách nghĩ, nhưng là cơ hội tốt nhất. Có một điều chắc chắn: nếu bạn không bắt đầu ngay từ lúc bạn nhận bằng cử nhân, có rất ít khả năng bạn sẽ làm được sau này. Đó là lý do giải thích tại sao học đại học chỉ để chuẩn bị cho xin việc là đã lãng phí phần lớn thời gian 4 năm học.
Các trường danh giá thích khoe khoang rằng họ dạy sinh viên của mình cách suy nghĩ, nhưng tất cả những gì họ làm là dạy sinh viên những kỹ năng phân tích và hùng biện cần thiết cho sự thành công trong giới kinh doanh và các ngành nghề khác. Tất cả chỉ nghiêng về kỹ nghệ – sự phát triển chuyên môn – và mọi thứ cuối cùng lại được đánh giá theo khái niệm kỹ nghệ.
Các trường đại học tôn giáo – thậm chí là những trường địa phương, chẳng tên tuổi gì – thường làm việc này tốt hơn. Qủa là một bản cáo trạng cho các trường Ivy và đồng bọn của nó: rằng những trường đại học hạng tư trên cột xếp hạng học thuật – những kẻ nhận sinh viên có điểm SAT thấp hơn họ vài trăm điểm – lại cung cấp nền giáo dục tốt hơn, theo đúng ý nghĩa cao nhất của từ này.
Ít nhất thì các lớp học ở trường danh giá cũng khắt khe về mặt học thuật, tùy thuộc vào khóa học của họ chứ? Không hẳn vậy. Trong các ngành khoa học thì thường là như vậy, nhưng các ngành khác thì không hẳn. Tất nhiên là có những ngoại lệ, nhưng giáo sư và sinh viên phần lớn bước vào một thứ được gọi là “hiệp ước không gây chiến”. Sinh viên được coi như những “khách hàng”, họ sẽ được thỏa mãn thay vì bị thách thức. Các giáo sư được vinh danh vì những nghiên cứu, để họ dành ít thời gian cho những bài giảng trên lớp nhất có thể. Toàn bộ cơ cấu khuyến khích này chống lại việc giảng dạy. Trường càng danh giá thì xu hướng này càng mạnh. Kết quả là bài càng kém thì điểm càng cao.
Đúng là giới trẻ ngày nay tham gia hoạt động xã hội nhiều hơn, có khả năng thích ứng với những thứ sáng tạo và có tinh thần doanh nghiệp cao hơn. Nhưng có một sự thật, ít nhất là ở các trường danh giá nhất, rằng giả sử những tinh thần tốt đẹp này vẫn tồn tại khi họ đã tốt nghiệp (giả sử nhé), thì chúng cũng thường bị đánh bật bởi một quan điểm nông cạn là cái gì làm nên một cuộc sống có giá trị, đó là: sự giàu có, thành tích và danh tiếng.
Bản thân sự trải nghiệm bị biến thành chức năng công cụ thông qua bài luận vào đại học. Trải nghiệm là thứ để đưa vào bài luận “làm hàng”. Tờ New York Times từng đưa tin về ngành công nghiệp đang ăn lên làm ra nhờ sản xuất những mùa hè chuẩn bị bài luận. Nhưng thứ điên rồ nhất là sự hời hợt của những hoạt động này: một tháng du lịch vòng quanh nước Ý để học về thời kỳ Phục hưng, dành “cả ngày” với một ban nhạc nổi loạn. Cả một ngày!
Tôi nhận thấy điều tương tự khi nói tới hoạt động vì cộng đồng. Tại sao lại phải tới những nơi như Guatemala để làm từ thiện, thay vì Milwaukee hay Arkansas? Còn nếu ở Mỹ thì tại sao cứ phải đổ đến New Orleans? Có lẽ chẳng có gì phải ngạc nhiên khi bọn trẻ được dạy rằng hoạt động cộng đồng là thứ mà chúng làm vì chính bản thân mình, vì một tấm hồ sơ đẹp. “Xuất sắc bằng cách làm việc tốt” trở thành một khẩu hiệu.
Nếu có một ý tưởng, mà thông qua đó khái niệm trách nhiệm xã hội được truyền đạt ở các trường danh giá, thì đó là “khả năng lãnh đạo”. “Harvard dành cho những nhà lãnh đạo” trở thành một câu nói chán ngắt của dân Cambridge. Là một sinh viên xuất sắc nghĩa là liên tục được khuyến khích nghĩ về bản thân như một nhà lãnh đạo tương lai. Trở thành cộng sự ở một công ty luật lớn hay trở thành một tổng giám đốc, leo lên chiếc cột mỡ của bất cứ hệ thống nào mà bạn quyết định tham gia. Tôi không nghĩ rằng những người đứng đầu các trường danh giá từng nghĩ tới việc khái niệm lãnh đạo nên có một ý nghĩa cao hơn, hoặc là bất cứ ý nghĩa nào khác.
Điều trớ trêu là, những sinh viên ưu tú này thường được nói rằng họ có thể trở thành bất cứ ai mà họ muốn, nhưng hầu hết đều chọn trở thành một trong những thứ rất giống nhau. Tính tới năm 2010, khoảng 1/3 sinh viên tốt nghiệp Harvard, Princeton, Cornell làm việc trong lĩnh vực tài chính hoặc tư vấn. Những ngành nghề biến mất khỏi tầm ngắm của họ gồm có: giáo sĩ, quân đội, chính trị gia, thậm chí là các ngành học thuật trong đó có khoa học cơ bản. Bỏ học để trở thành một Mark Zuckerberg tiếp theo được xem là hấp dẫn, nhưng trở thành một nhân viên xã hội bị xem là lố bịch. “Điều mà Wall Street phát hiện ra là, những đại học này đang sản xuất ra một lượng lớn những cử nhân vô cùng thông minh nhưng lại hoàn toàn lạc lối. Những đứa trẻ có mã lực mạnh mẽ, có tinh thần làm việc đáng kinh ngạc, nhưng lại chẳng biết làm gì tiếp theo”.
Với hầu hết các trường danh giá, hệ thống này vẫn đang làm việc rất tốt. Lượng hồ sơ ngày càng tăng, quỹ hiến tặng ngày một lớn mạnh, học phí tăng đi kèm với những than vãn mang tính hình thức, nhưng chẳng ảnh hưởng gì tới kinh doanh. Còn việc nó có hiệu quả với ai hay không lại là một câu hỏi khác.
Khá nực cười khi phải nhấn mạnh rằng những trường như Harvard là thành trì của sự đặc quyền – nơi mà những người giàu đưa con cái tới để học cách đi lại, cách nói chuyện và cách suy nghĩ giống như người giàu. Chúng ta không biết điều đó sao? Hay chúng ta chỉ đang giả vờ là chúng ta đang sống trong một chế độ trọng dụng nhân tài?
Dấu hiệu của sự công bằng giả dối của hệ thống này chính là hệ thống chính sách dưới cái mác “sự đa dạng”. Hãy ghé thăm bất cứ ngôi trường danh giá nào khắp đất nước rộng lớn này. Bạn có thể thấy những cảnh tưởng ấm lòng khi những đứa trẻ da trắng đang kết nối với những đứa trẻ da đen, châu Á, Latin. Đám trẻ ở những trường như Stanford nghĩ rằng môi trường của chúng đa dạng nếu có một người tới từ Missouri, một người khác tới từ Pakistan, nếu một người chơi cello, còn người khác thì chơi bóng vợt. Chẳng có ai nghĩ đến chuyện tất cả bố mẹ chúng đều là những bác sĩ, hay chủ ngân hàng.
Điều đó không có nghĩa là không có một vài ngoại lệ, nhưng đó là tất cả những gì họ có. Nhóm thiệt thòi nhất theo chính sách tuyển sinh hiện tại của chúng ta là những em tới từ tầng lớp lao động và những sinh viên da trắng sống ở nông thôn – những người hầu như hiếm khi xuất hiện trong khuôn viên các trường danh giá.
Đừng lừa phỉnh bản thân nữa. Trò chơi tuyển sinh phần lớn không dành cho tầng lớp thấp hay tầng lớp trung lưu đang tìm kiếm sự đổi đời, thậm chí không dành cho tầng lớp thượng lưu đang nỗ lực duy trì vị trí. Ở những khu ngoại ô giàu có và những ốc đảo xa xỉ trong thành phố - nơi mà trò chơi đang diễn ra, vấn đề không phải là bạn có được học trường danh giá hay không, mà là bạn sẽ học trường nào. Chọn giữa Penn và Tufts, chứ không phải là Penn và Penn State. Chẳng có gì đáng bận tâm nếu một thanh niên sáng dạ học ở Ohio State, trở thành bác sĩ, sống ở Dayton, thu nhập tốt. Như thế vẫn là quá tệ.
Những con số thì không thể nói dối. Năm 1985, 46% sinh viên năm nhất ở 250 đại học danh giá nhất tới từ ¼ bộ phận có thu nhập cao nhất. Năm 2000, con số này là 55%. Đến năm 2006, chỉ có khoảng 15% tới từ nửa dưới của bảng phân phối thu nhập. Trường càng danh giá thì bộ phận sinh viên càng có xu hướng thiếu bình đẳng. Đến năm 2004, 40% sinh viên năm nhất tới của các trường danh giá nhất tới từ những gia đình có mức thu nhập trên 100.000 đô la – tăng 32% so với 5 năm trước đó.
Lý do chính của xu hướng này cũng rất rõ ràng. Dù không tăng học phí, nhưng mức chi phí để “sản xuất” ra những đứa trẻ phù hợp với sự cạnh tranh trong cuộc chơi tuyển sinh thì ngày càng tăng. Những gia đình giàu có bắt đầu dùng tiền để dọn đường cho con cái họ tới Ivy League ngay từ khi chúng được sinh ra: học nhạc, mua dụng cụ thể thao, du lịch nước ngoài, và quan trọng nhất là học phí trường tư hoặc học ở những trường công hàng đầu.
SAT là công cụ để đánh giá khả năng học tập, nhưng cũng là cách để đo thu nhập cha mẹ. Vấn đề không phải là con nhà nghèo không đủ tiêu chuẩn để theo học. Mà là các trường tư danh giá sẽ không bao giờ để điều kiện kinh tế của toàn bộ sinh viên phản ánh chính xác bộ mặt kinh tế của toàn xã hội. Họ không đủ khả năng để làm việc đó. Họ cần một lượng lớn những người đóng học phí đầy đủ, và họ cần các nhà tài trợ.
Các trường danh giá không chỉ bất lực trong việc đảo ngược động thái hướng tới một xã hội bất bình đẳng hơn, mà chính sách của họ thậm chí còn thúc đẩy tích cực điều đó.
Tôi có thể làm gì để tránh trở thành một thứ bỏ đi đầy đặc quyền– nhiều bạn trẻ đã viết thư hỏi tôi như vậy. Bạn không thể đồng cảm với những người ở tầng lớp khác mà vẫn nghĩ theo cách của mình. Bạn cần phải tương tác trực tiếp với họ trên nguyên tắc bình đẳng, chứ không phải làm vì “cộng đồng” hay trên tình thần “cố gắng”, cũng đừng sấn tới một người trong ban cố vấn đại học, mua cho họ một cốc cà phê, đổi lại là “hỏi về bản thân họ”.
Thay vì làm tình nguyện, sao không thử làm bồi bàn để hiểu rằng công việc đó vất vả như thế nào, cả về thể chất lẫn tinh thần. Bạn thực sự không thông minh như người ta vẫn nói về bạn đâu; bạn chỉ thông minh hơn theo cách nào đó. Có những người thông minh không học đại học danh tiếng, thậm chí là không học đại học – thường là vì lý do giai cấp. Có những người thông minh không tỏ ra thông minh.
Tôi không ảo tưởng rằng nơi bạn học không quan trọng. Nhưng vẫn còn những lựa chọn khác. Vẫn có những trường công tốt ở khắp nơi trên đất nước này.
Báo cáo của US News and World Report cho thấy tỷ lệ sinh viên năm nhất nằm trong 10% sinh viên xuất sắc nhất ở trường phổ thông. Với 20 trường tốp đầu, con số này thường là trên 90%. Tôi sẽ lo lắng khi học ở những ngôi trường này. Sinh viên định hình mức độ của cuộc thảo luận. Họ định hình giá trị và những kỳ vọng. Một phần vì sinh viên mà tôi cảnh báo bọn trẻ tránh xa các trường Ivy và đồng bọn. Những đứa trẻ ở trường ít danh giá hơn có xu hướng thú vị hơn, tò mò hơn, cởi mở hơn, ít đặc quyền hơn cũng như bớt hiếu thắng hơn.
Nếu có bất kỳ nơi nào mà đại học vẫn là đại học, giảng dạy và nhân văn vẫn là niềm tự hào của họ thì đó là những trường đại học giáo dục khai phóng. Lựa chọn tốt nhất có thể là những trường bậc 2 như Reed, Kenyon, Wesleyan, Sewanee, Mount Holyoke… Thay vì cố cạnh tranh với Harvard và Yale, những trường này vẫn giữ được lòng trung thành của mình với các giá trị giáo dục thực sự.
Không trở thành một thứ bỏ đi đầy đặc quyền cũng là một mục tiêu đáng ngưỡng mộ. Nhưng cuối cùng, vẫn là cùng nhau tìm ra lối thoát dẫn tới một kiểu xã hội khác, chứ không phải đơn thuần là cải cách hệ thống từ trên xuống dưới.
Hệ thống giáo dục phải hành động để giảm thiểu sự phân chia giai cấp, chứ không phải là làm nó hồi sinh. Hành động phải dựa trên giai cấp, thay vì chủng tộc. Sự ưu tiên dành cho những đứa trẻ thừa kế hay các vận động viên phải được loại bỏ. Điểm SAT nên đặt nặng các yếu tố kinh tế xã hội. Các trường nên chấm dứt kiểu hồ sơ đưa ra giới hạn về số lượng hoạt động xã hội mà bọn trẻ phải liệt kê, mà nên tập trung vào những công việc mà trẻ thu nhập thấp thường tham gia thời phổ thông – những công việc mà con nhà giàu không bao giờ làm. Các trường cũng nên từ chối những yếu tố gây ấn tượng nhờ sự giàu có của cha mẹ.
Sự thay đổi cũng cần phải đi sâu hơn là cải cách quá trình tuyển sinh. Vấn đề là bản thân các trường Ivy League. Chúng ta đang ký hợp đồng đào tạo ra những thế hệ lãnh đạo cho các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, không nhiều trong số họ hành động vì lợi ích chung. Họ sẽ đặt lợi ích của mình lên trên hết. Liệu ham muốn nhận tiền tài trợ từ cựu sinh viên của Harvard có phải là một lý do phù hợp để duy trì hệ thống này?
Tôi từng nghĩ rằng chúng ta cần tạo nên một thế giới mà mọi đứa trẻ đều có cơ hội như nhau để vào các trường Ivy League. Tôi thấy rằng cái mà chúng ta thực sự cần là tạo ra một nơi mà bạn không cần phải vào Ivy League hay bất kỳ trường tư nào để có được nền giáo dục hàng đầu.
Giáo dục công chất lượng cao – được tài trợ bằng tiền công – vì lợi ích của tất cả mọi người. Ai cũng có cơ hội tiến xa nếu họ đủ chăm chỉ và tài năng – bạn biết đấy, giấc mơ Mỹ. Bất kể ai nếu muốn đều có được những trải nghiệm giúp mở mang trí óc, làm giàu tâm hồn mà một nền giáo dục khai phóng có thể mang lại. Chúng tôi nhận ra rằng hệ giáo dục K-12 chất lượng và miễn phí chính là quyền công dân. Chúng ta cần công nhận – như chúng ta từng làm và nhiều quốc gia đã làm – rằng điều này cũng đúng với giáo dục đại học. Chúng ta đã thử chế độ quý tộc thống trị. Chúng ta đã thử chế độ nhân tài. Bây giờ đã đến lúc để thử chế độ dân chủ.
Bài viết của William Deresiewicz – một tác giả người Mỹ, giáo sư tại ĐH Yale. Một trong những cuốn sách gây tiếng vang của ông là “Excellent Sheep: The Miseducation of the American Elite and the Way to a Meaningful Life” xuất bản năm 2014.
Thường, sau mỗi chuyến về quê, Thành và vợ con sẽ “gom” của má một mớ đặc sản quê, từ sợi hủ tiếu đến cái cây non cha anh vừa ươm, “đem lên trồng ở ban công, chăm sóc cho đỡ nhớ quê”. Năm nay cũng vậy. Ngày lên, cậu gửi cho tôi 2 trái bưởi, bảo “mẹ em gửi, anh ăn lấy thảo”.
Quê là nơi con người sinh ra, lớn lên, gắn bó suốt cả tuổi thơ nên nhiều kỷ niệm và tất nhiên nằm sâu trong tim mình. Tôi có ông bạn lớn hơn vài chục tuổi - lẽ nên gọi chú, nhưng anh kêu “chú cứ gọi bằng anh cho anh trẻ ít tuổi” - đã định cư ở Úc khá lâu nhưng tự dưng càng lớn tuổi càng muốn về Việt Nam. Anh bảo, quê nhà có sức hút lạ lắm, kêu tôi mai mốt lớn tuổi hơn sẽ rõ.
Thực sự, không cần đợi lớn tuổi. Ở tuổi này - trung niên - tôi bắt đầu nhớ quê da diết hơn và cũng thường sắp lịch về nhà dày hơn lúc trẻ. Có lẽ, đến một lúc, con người nhận ra, bôn ba kiếm thật nhiều tiền nhưng thiếu cái gốc quê, không kết nối được với mảnh đất mình sinh ra thì cũng như cái cây nhìn bên ngoài thì xanh tốt nhưng đã mục rỗng bên trong. Một cơn gió lớn có thể gãy ngang, tróc gốc.
Tôi hay chơi với những người lớn hơn mình. Có những người bằng tuổi mẹ tôi nhưng vẫn bảo, “xưng anh em đi mày”, chắc do tôi già. Nhưng quả thực, có những người bạn lớn tuổi hơn, mình có lợi rất nhiều. Không phải tiền bạc mà là kinh nghiệm sống, lắng nghe được những trăn trở của họ để rồi tự rút ra được một bài học gì đó, chuẩn bị trước cho hành trình già đi thật sự (là tất yếu, đương nhiên) của mình.
Rồi, tự nhiên tôi nhớ tác giả Vũ Thế Thành. Ông viết trong Những thằng già nhớ mẹ(NXB Hội Nhà Văn) rằng: “Tuổi càng cao, càng dễ quên chuyện trước mắt, nhưng càng nhớ chuyện xa xôi. Tuổi đời, tình đời trải miết rồi, nay nhớ về mẹ, thấy mình còn biết bao điều thiếu sót và ray rứt, cứ giá mà... giá mà...”.
Trong thế giới “mở” của ngày hôm nay, định nghĩa về “công dân toàn cầu” không còn xa lạ khi dường như những người trẻ ở quê lớn lên đều tha hương mưu sinh. Gần thì từ miền Tây lên Sài Gòn, xa thì từ những tỉnh thành miền Trung, miền Bắc vào TP HCM, mải miết kiếm tiền, lập sự nghiệp, lập gia đình, lo cho con cái…
Vòng lặp của con người đó khó tránh. Nhưng làm sao để những cuộc tha hương ấy vẫn đong đầy kết nối giữa những người thân thuộc, xóm giềng, bà con, dòng họ là câu chuyện văn hóa “đi để trở về” thật đẹp. Có nhiều cuộc đi-về không chỉ trong ranh giới tỉnh này, thành phố khác mà giữa Việt Nam với bao nhiêu quốc gia khác, cách hàng chục giờ bay. Vậy đó, nhưng họ vẫn về! Đất quê, tình yêu ấy thôi thúc.
Người già ở làng quê Việt những ngày này hẳn sẽ rất vui, như má của Thành hay gia đình của Trang, hai trong số những con người có quê ở miền Tây tôi biết.
Tôi hiểu cảm xúc đó của họ vì tôi cũng là người xa quê, xa mẹ.
Vài hôm trước, tôi xem phim của Lý Hải. Lật mặt 7 - bộ phim vừa ra rạp đã làm nóng phòng vé - cũng có lý do, vì đã chạm tới cảm xúc của nhiều người. Tôi khóc, vì bộ phim đã kể những câu chuyện rất thật, những lát cắt rất đời từ gia đình điển hình của bà Hai, nhân vật chính của bộ phim.
Sinh con đông là “đặc sản” của xã hội Việt Nam những năm tám mấy, chín mươi của thế kỷ trước, đến nỗi từ hội hè đến trường học, xóm thôn đến phố thị đều kêu gọi kế hoạch hóa gia đình. Sinh con để nhờ, vì thời đó chủ yếu làm nông nghiệp, ai có nhiều nhân lực thì có thể cuốc đất, vỡ điền, làm ăn đỡ vất vả hơn. Nhưng rồi, xã hội công nghiệp, việc rời làng quê của những người trẻ thế hệ 8X, 9X đã quá quen thuộc. Kế đó là những gia đình thế hệ mới đa địa phương được biểu hiện. Về quê là câu chuyện tính toán của họ, lễ 30/4 về nhà nội, Tết nguyên đán về nhà ngoại, rồi đảo lại.
Về với mẹ là gạch đầu dòng mang tính biểu tượng của việc trở về với bến thương yêu đang đợi chờ ta. Ở đó, có người già cần những đứa con đứa cháu về thăm để nấu bữa ăn ngon, món quê, đặc sản, kể chuyện hồi xưa. Rồi lại đùm túm gửi đi mớ quà quê. Cha mẹ nào chẳng vậy.
Với những người con, về quê dịp lễ (hoặc sau lễ như tôi) cũng là cách làm mới tâm hồn, kết nối yêu thương. Gia đình với tôi là thuốc chữa lành tốt nhất. Vì vậy, đường về quê có thể khá vất vả, đôi khi tốn kém, nhưng “du lịch về nhà” mang một ý nghĩa thiêng liêng, sâu thẳm nên tôi cũng như nhiều người luôn để ở dạng ưu tiên số một.
“Ba mẹ ngày càng lớn tuổi. Người già sống bằng ngày bằng tháng. Có dịp thì về quê”. Đó là lời khuyên của những ông bà cụ lớn tuổi dành cho lớp trẻ xa quê như tôi. Tôi nhớ rồi rưng rức như lúc ngồi trong rạp phim xem Lật mặt 7, muốn chạy ù về nhà ôm mẹ, nói cám ơn, chứ không cần phải rong ruổi ở đâu đâu chỉ để chụp choẹt, check-in trên mạng xã hội.
Mà, thực ra, tôi thấy mấy hình mộc mạc đồng quê của mình cùng với mảnh vườn có bàn tay mẹ tôi chăm sóc, mỗi khi check-in đều đông đảo lượt xem, bình luận, thả tim hơn hẳn. Về nhà cũng “sống ảo” được mà!