Trong đó, các tổ chức tín dụng (TCTD) phát hành 167.000 tỷ đồng, chiếm 56,3% khối lượng phát hành; doanh nghiệp bất động sản phát hành 87.800 tỷ đồng, chiếm 29,6%; các doanh nghiệp lĩnh vực khác phát hành 42.000 tỷ đồng, chiếm 14,1%.
Theo Bộ Tài chính, trái phiếu của tổ chức tín dụng toàn bộ không có bảo đảm, 97,7% trái phiếu của doanh nghiệp bất động sản phát hành có bảo đảm.
Trong năm 2023, các doanh nghiệp đã mua lại trái phiếu trước hạn, với khối lượng 248.200 tỷ đồng.
Theo đó, các tổ chức tín dụng mua lại trước hạn 126.000 tỷ đồng, các doanh nghiệp bất động sản mua lại trước hạn 55.900 tỷ đồng, lĩnh vực khác mua lại trước hạn 66.300 tỷ đồng.
Trong 3 tháng đầu năm 2024 các doanh nghiệp tiếp tục mua lại trái phiếu trước hạn với giá trị hơn 17.000 tỷ đồng.
Biểu đồ: Hồng Khanh
Về tình hình giao dịch TPDN riêng lẻ từ tháng 7/2023 đến cuối năm, tổng giá trị giao dịch đạt khoảng 218.150 tỷ đồng, trung bình đạt 1.881 tỷ đồng/phiên giao dịch.
Bộ Tài chính cho biết, trong năm 2023, có 139 doanh nghiệp chậm thanh toán gốc, lãi trái phiếu với tổng giá trị khoảng 83.600 tỷ đồng. Trong đó các doanh nghiệp bất động sản chiếm 50,7%, doanh nghiệp xây dựng 4,6%, doanh nghiệp thương mại, dịch vụ chiếm 21,4%, doanh nghiệp sản xuất năng lượng chiếm 5%, doanh nghiệp các lĩnh vực khác chiếm 18,3%.
Trong số 139 doanh nghiệp chậm thanh toán gốc, lãi trái phiếu này, có 33 doanh nghiệp chậm thanh toán từ 1-30 ngày, 38 doanh nghiệp đã có phương án đàm phán với nhà đầu tư, số doanh nghiệp còn lại chưa có phương án rõ ràng.
Tình hình tài chính loạt doanh nghiệp bất động sản
Theo Bộ Tài chính, hiện pháp luật về doanh nghiệp, chứng khoán, TCTD không có quy định về chia nhóm doanh nghiệp theo nhóm có khả năng trả nợ, nhóm có nguy cơ mất khả năng thanh toán, nhóm không có khả năng thanh toán.
Tuy nhiên, để phân tích và nhận định rủi ro, Bộ này căn cứ vào báo cáo tài chính mới nhất của doanh nghiệp phát hành trái phiếu cung cấp cho HNX để chia doanh nghiệp theo 3 nhóm: rất khó khăn trong việc trả nợ, có khả năng gặp khó khăn trả nợ và các doanh nghiệp còn lại.
Bộ cũng lưu ý, việc phân loại này mang tính chất tương đối vì khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác và tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường xuyên biến động.
Theo phân loại trên, với 92 doanh nghiệp bất động sản có trái phiếu đáo hạn năm 2024, có 3 doanh nghiệp rất khó khăn trong việc trả nợ (âm vốn chủ sở hữu) là CTCP Du lịch và Đầu tư Xây dựng Châu Á (CTAC) với hệ số nợ/vốn chủ sở hữu -8,8 lần; CTCP Phát triển BĐS Nhật Quang (NQBC) có vốn chủ sở hữu -3.960 tỷ đồng; CTCP Đầu tư Smart Dragon (SMDC) vốn chủ sở hữu -2.520 tỷ đồng.
18 doanh nghiệp có khả năng gặp khó khăn trả nợ. Đây là những doanh nghiệp có kết quả kinh doanh thua lỗ và hệ số nợ/vốn chủ sở hữu từ 3 lần trở lên.
Có thể kể đến như: CTCP Đầu tư Technical-TNCC với hệ số nợ/vốn chủ sở hữu là 24,6 lần; Công ty TNHH Phát triển BĐS An Khang-AKRC (17 lần); CTCP North Star Holdings-NSTC (14,2 lần); CTCP Dịch vụ đầu tư Lucky House-LKHC (12,6 lần);
Công ty TNHH Thành phố Aqua-TPAC (8,9 lần); CTCP Đầu tư kinh doanh và phát triển đô thị Ngôi sao Phương Nam-SPNC (6,1 lần); CTCP Đầu tư Golden Hill-GHIC (5,1 lần)…
Còn lại nhóm 3 với 71 doanh nghiệp với một số cái tên như: Công ty TNHH Đầu tư và phát triển đô thị Hưng Yên-HIDC với hệ số nợ/vốn chủ sở hữu là 33,1 lần; Công ty TNHH Xây dựng và phát triển Hoàng Long-HLCC (10,6 lần); Công ty TNHH Tư vấn đầu tư Nguyên Bình-NBCC (13,9 lần);
CTCP Tập đoàn đầu tư địa ốc Nova-NVL (3,9 lần); CTCP Đầu tư địa ốc No Va-NVJC (1,3 lần); CTCP Hưng Thịnh Investment-H39C (2,6 lần); CTCP Hưng Thịnh Land (2,9 lần);
CTCP Kinh doanh nhà Sunshine-SHJC (2,9 lần); CTCP Đầu tư và kinh doanh BĐS Hải Phát-HPLC (3,7 lần); CTCP Đầu tư Hải Phát-HPX (1,5 lần); Tập đoàn Geleximco-CTCP (2,2 lần)…
Năm 2020, bệnh viện từng đón bé gái chào đời nặng 6,1kg, gần bằng trọng lượng của trẻ 3 tháng tuổi, là con thứ 3 của sản phụ từng 2 lần sinh con to trước đó (4,5-5,3kg).
Kỷ lục trẻ sơ sinh nặng nhất Việt Nam trong 6 năm trở lại đây thuộc về một em bé ở huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, chào đời với trọng lượng 7,1kg, năm 2017.
Theo các bác sĩ, em bé đủ tháng khi sinh ra nặng trung bình khoảng 2,8-3,5kg. Thai nhi nặng hơn 4kg được gọi là thai to.
Trẻ sơ sinh nặng cânthường gặp ở mẹ tiểu đường thai kỳ, khi đó bé dễ bị hạ đường huyết, suy hô hấp, nhiễm trùng huyết, viêm phổi… Bé chào đời cần được theo dõi sát sao, nguy cơ cao hạ đường huyết vì nhu cầu năng lượng nhiều hơn.
Các bác sĩ khuyên các mẹ bầu, đặc biệt là thai phụ mang bầu to, cần khám định kỳ để theo dõi sức khỏe của mẹ và bé, có chế độ dinh dưỡng và tập luyện hợp lý, ăn nhiều rau xanh, hạn chế đường và tinh bột. Thai phụ cũng cần tầm soát tiểu đường thai kỳ, tránh gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm cho hai mẹ con.
Nếu có dấu hiệu nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, tăng cân hơn 1kg/tuần, thai phụ cần tới viện ngay. Sau sinh từ 3 đến 6 tuần, mẹ cũng cần khám chuyên khoa tim mạch và nội tiết.
Năm 2010, Nhật Bản là quốc gia đầu tiên đặt dấu chấm hết cho mạng 2G. Tiếp đó, nhà mạng KT Corp của Hàn Quốc cũng đã sớm tắt sóng 2G vào năm 2011 trong khi một nhà mạng khác là SK Telecom mới chỉ tắt sóng 2G vào tháng 7 năm ngoái. Tại Đài Loan (Trung Quốc), mạng 2G cũng đã chấm dứt hoạt động vào tháng 7/2017….
Tại Mỹ, nhiều nhà mạng cũng đã, đang lên kế hoạch tắt sóng 2G. Nhà mạng AT&T đã ngừng dịch vụ trên mạng 2G vào năm 2017, trong khi Verizon đóng cửa mạng 2G vào khoảng năm 2020. T-Mobile thì cho biết sẽ tắt mạng 2G GSM vào ngày 2/4/2024…. Thậm chí, một số cơ quan quản lý nước này cũng đang bắt đầu xem xét phổ tần và tiêu chuẩn cho mạng 6G.
Tại Trung Quốc, ba nhà mạng lớn nhất là China Mobile, China Telecom và China Unicom cũng đang trong quá trình tắt sóng mạng 2G và 3G và chuyển đổi khách hàng sang mạng 4G hoặc 5G.
Lý do phổ biến dẫn đến quyết định dừng hoạt động 2G tại các quốc gia cũng như với các nhà mạng lớn trên thế giới hầu hết đều xuất phát từ việc công nghệ của các thế hệ mạng cũ đã không còn phù hợp với xu thế, xu hướng công nghệ. Mặt khác do đặc thù công nghệ cũ vì vậy các thế hệ mạng cũ không đáp ứng với nhu cầu về ứng dụng ngày càng cao từ phía khách hàng.
Câu chuyện về sự thay đổi đó không loại trừ tại Việt Nam…
Tiềm năng về sự phát triển mang tính đột phá
Tại Việt Nam, mạng 2G đã được áp dụng từ năm 1993, là một trong những quốc gia “đi tắt đón đầu” trong việc ứng dụng công nghệ mới giữa thời điểm mạng analog vẫn còn phổ biến. Sự thích ứng và liên tục cập nhật các công nghệ mới đã biến Việt Nam trở thành một trong những thị trường phát triển sôi động và mạnh mẽ. Đặc biệt, từ năm 2020, Việt Nam đã được xem là một trong những quốc gia đầu tiên thí điểm và ứng dụng 5G thành công với một số ít nhà mạng, bao gồm VinaPhone.
Đến thời điểm hiện tại, mạng 5G đã được thí điểm ở 55 tỉnh, thành phố. Mạng 5G của VinaPhone cũng đã được phủ ở hầu hết các tỉnh thành và nhận được sự phản hồi tích cực từ phía khách hàng.
Năm 2024 được đánh giá sẽ là năm Việt Nam thương mại hóa, phát triển 5G trên phạm vi toàn quốc để tạo ra hạ tầng cho các ứng dụng số công nghiệp. Thực tế, mạng 5G đã đem đến những trải nghiệm khác biệt chưa từng có đối với người tiêu dùng Việt.
Cùng với quá trình chuyển đổi số quốc gia, xây dựng các đô thị thông minh và sự hội nhập của các công nghệ như AR/VR, IoT, Blockchain… yêu cầu chất lượng dịch vụ mạng di động tại Việt Nam ngày càng cao. Thậm chí, năng lực cung cấp dịch vụ ở mạng 3G, 4G đối với một vài ứng dụng do hạn chế về công nghệ nên vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng kịp nhu cầu. Cùng với đó là sự ngày càng hạn chế của các thiết bị công nghệ sử dụng mạng 2G, việc thay đổi đã, đang trở thành tất yếu. Khi các thiết bị 2G cũ không còn đáp ứng được sự an toàn cũng như nhu cầu, việc chuyển đổi lên 4G, 5G sẽ đem lại quyền lợi lớn cho người dân và khách hàng.
Đứng trước bối cảnh mới, bài toán về việc tắt sóng 2G để tối ưu việc quy hoạch tần số và tối ưu hạ tầng mạng lưới và tối ưu chi phí cũng được đặt ra, đáp ứng với yêu cầu của quá trình chuyển đổi số quốc gia, đưa người dân bước lên môi trường số.
Theo lộ trình, đến tháng 9/2024 sẽ tắt sóng 2G trên cả nước, tiến tới tắt sóng 3G những năm sau đó. Điều này sẽ ảnh hưởng tới khoảng 15 triệu người đang dùng điện thoại “cục gạch” sẽ phải chuyển sang dùng điện thoại thông minh… Tuy nhiên, để không người dân, khách hàng nào bị bỏ lại phía sau, các cơ quan chức năng cùng các nhà mạng cũng đã đều chuẩn bị các phương án hỗ trợ chuyển đổi tối ưu cho người dùng.
Là nhà mạng đầu tiên triển khai mạng di động 2G trong nước, quá trình gắn bó với sóng 2G hàng chục năm qua, VinaPhone đã luôn nỗ lực đem đến cho khách hàng những dịch vụ số tốt nhất, tối ưu nhất và hiện đại nhất.
Theo đại diện VinaPhone, để đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lý về việc dừng sóng 2G, nhà mạng cũng đã sẵn sàng lộ trình phù hợp và truyền thông rộng rãi tới khách hàng, đồng thời có các chính sách hỗ trợ khách hàng chuyển đổi.
“Với tôn chỉ hoạt động hướng tới khách hàng và quan niệm "Khách hàng là những người thân yêu nhất" vì vậy trong mọi trường hợp, VinaPhone đều chuẩn bị sẵn các phương án nhằm đảm bảo quyền lợi và không ảnh hưởng tới trải nghiệm của khách hàng khi thực hiện tắt sóng 2G”, đại diện nhà mạng khẳng định.
Từ năm 2015, khi 2G vẫn chiếm khoảng khoảng 60% lưu lượng mạng, VNPT đã xác định chiến lược và xây dựng kế hoạch tắt sóng 2G, triển khai các bài toán 2G kết hợp với triển khai 3G, 4G. Trong 2 năm qua, VNPT đã chủ động tiến hành tắt các trạm riêng lẻ không phát sinh hoặc phát sinh rất ít lưu lượng. Để làm điều này, VNPT đã kết hợp cả hoạt động kỹ thuật cũng như tuyên truyền cho thuê bao trong khu vực và tiến hành tắt sóng khoảng 10% trạm riêng 2G. VNPT đã xây dựng kế hoạch, giải pháp để đến tháng 9/2024 cam kết thực hiện chuyển đổi tất cả thuê bao, thiết bị chỉ hỗ trợ mạng 2G theo chỉ đạo, định hướng của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Ngọc Minh
" alt=""/>VNPT lên phương án đảm bảo quyền lợi khách hàng khi tắt sóng 2G