Hai anh em Huy (đeo kính, là anh) và Hùng.
Ngủ, thức dậy và làm mọi việc cùng nhau, suốt 21 năm qua, cặp song sinh Châu Xuân Huy và Châu Xuân Hùng (SN 2000, ở xã Hà Linh, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh) cứ luôn như hình với bóng.
Huy và Hùng không chỉ là anh em, mà còn là tri kỷ, cả hai luôn đồng hành trong mọi hoàn cảnh, mọi khoảnh khắc vui buồn trong cuộc sống.
Lần đầu gặp Huy và Hùng khiến người đối diện khó lòng phân biệt. Cả 2 đều cao khoảng 1,70 m, dáng người mảnh, làn da mỏng, trắng sứ, mái tóc, mày, mi có màu bạc trắng như cước.
"Em là anh còn Hùng là em. Em có khác Hùng một điểm là đeo kính và vừa rồi em có nhuộm màu tóc khác. Chứ bình thường mọi người rất khó nhận biết ra ai là Huy, ai là Hùng", Huy cười.
Suốt 21 năm qua, Huy và Hùng luôn như hình với bóng. Hai em vừa là anh em, vừa là bạn tri kỷ.
Anh Châu Xuân Thắng (bố của em Huy, Hùng) cho biết, cả 2 em khi sinh ra đã khác thường, nước da màu hồng, tóc trắng, cặp mắt màu hồng pha lẫn xanh dương.
"Sau này, đi khám các các sĩ cho biết, 2 đứa bị mắc chứng bệnh bạch tạng toàn phần hiếm gặp, không thể điều trị được", anh Thắng cho biết.
Ngoài những đặc điểm bệnh lý dễ trông thấy bằng mắt thường, chứng bạch tạng còn ảnh hưởng tới thị giác của Huy và Hùng. Cặp song sinh này chỉ nhìn được mọi thứ trong khoảng cách chừng 1 m, ở môi trường ánh sáng mạnh thì lực nhìn càng bị hạn chế hơn.
Cũng vì thế, giờ giấc sinh hoạt của 2 em cũng khác. Thời gian mà Huy và Hùng cảm thấy dễ chịu nhất là chiều tối và về đêm. Lúc ấy ánh sáng của mặt trời không còn làm cho 2 em khó chịu.
"Chúng em thường ngủ đến 9h, 10h sáng mới dậy và ra khỏi nhà, đi chơi vào buổi chiều tối thôi, vì ánh sáng mạnh của mặt trời khiến mắt không thể nhìn thấy gì cả", Huy cho biết.
Giờ đây, cả Huy và Hùng đã trở thành những chàng trai, cao lớn với bao khát vọng, nhưng những ký ức tuổi thơ "dữ dội" còn nguyên vẹn trong tâm trí của 2 em. Lúc còn nhỏ, những đứa trẻ cùng trang lứa trong thôn xóm, trong lớp học hầu như rất ít chơi, xa lánh với Huy và Hùng vì sự khác biệt về vẻ bề ngoài.
Những lúc mệt mỏi, Huy và Hùng rủ nhau ra bãi ngô sau nhà để vui đùa, chụp ảnh (Ảnh: NVCC).
"Khi ngồi ở lớp học, em cứ thắc mắc, tại sao các bạn nhìn lên bảng là có thể chép bài vào vở nhưng em và Hùng lại không làm được như thế. Lúc các bạn nói chúng em khác họ thì buồn lắm. Thậm chí nhiều người còn có những lời nói trêu đùa khó nghe khiến chúng em thấy tự ti", em Huy tâm sự.
"Mỗi lần đi học về chúng lại trốn trong nhà, không dám ra ngoài chơi. Hai đứa tự ti vì sự khác biệt của mình. Mọi người bàn tán về hai đứa khác biệt nhất làng", chị Nguyễn Thị Thanh (mẹ của Huy và Hùng) chia sẻ.
Mãi đến lúc lên lớp 3, lớp 4, Huy và Hùng cũng nhận ra mình khác những người bạn cùng trang lứa và tập làm quen dần với điều khác biệt ấy.
"Lúc đầu thì có buồn và tự ti lắm, nhưng sau 2 anh em cứ chơi với nhau, làm gì cũng có nhau nên không buồn nữa", Hùng chia sẻ thêm.
Những lúc mệt mỏi, Huy và Hùng lại dắt nhau ra bãi ngô với phía sau vườn giáp với con sông Ngàn Sâu để vui chơi, chụp ảnh, tận hưởng bầu không khí trong lành của buổi chiều hoàng hôn.
Bước ra khỏi "vùng tối"
Ca hát là niềm đam mê, là cuộc sống của Huy và Hùng.
Có lẽ "người bạn" duy nhất của Huy và Hùng là âm nhạc, niềm đam mê ca hát. Với chất giọng gợi cảm, từ năm lớp 6, lớp 7, tiếng hát của Huy và Hùng đã được nhiều người ở xã Hà Linh biết đến. Hai em đã thường xuyên đi biểu diễn tại các đám cưới ở trong xã và vùng lân cận, nhờ đó mà mọi người cũng yêu mến các em hơn.
"Ông Trời có lẽ không cho ai tất cả và cũng không lấy đi của ai tất cả. Đôi mắt chúng em không nhìn rõ thì ông Trời cho chúng em biết một chút về âm nhạc", Huy nói.
Sau khi học xong lớp 8, hai em quyết định rẽ sang một hướng mới, đó là theo đuổi niềm đam mê âm nhạc. Hai em đi học đàn để thỏa niềm đam mê của mình. Và cũng chính từ giọng ca của mình, Huy và Hùng đã kiếm được những khoản tiền đầu tiên để trang trải cuộc sống.
Từ lúc lớp 6, lớp 7, cặp song sinh này đã đi hát đám cưới để kiếm tiền (Ảnh: NVCC).
Đến cuối năm 2016, Huy và Hùng được một người anh tặng cho cây đàn piano để đi hát đám cưới. Thế nhưng, do sức khỏe của 2 em không được tốt, nên công việc hát đám cưới cũng chỉ được hơn một năm thì dừng lại.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của các mạng xã hội, Huy và Hùng tiếp tục có hướng đi khác. Cặp song sinh này lại tìm đến các phương tiện truyền thông mạng xã hội dựa trên nền tảng Internet.
"Em cũng có lập kênh Youtube và gần đây tập trung làm TikTok để giao lưu âm nhạc, nói chuyện với mọi người. Chỉ trong một thời gian ngắn trang TikTok của em đã có hơn 550.000 người Follower", Hùng vui mừng cho biết.
Huy và Hùng livestream trên trang TikTok để giao lưu với bạn bè bốn phương.
Đều đặn cứ 21h đêm đến 2h sáng ngày hôm sau, Huy và Hùng lại livestream ở góc nhỏ trong nhà để giao lưu với bạn bè bốn phương.
"Studio" của Huy và Hùng khá đơn giản, chỉ có một chiếc máy tính được đặt trên chiếc bàn nhỏ, một vài chiếc bóng chiếu sáng, chiếc micro, điện thoại để livestream. Những thiết bị này cũng đã khá cũ vì gia đình 2 em không có điều kiện để mua sắm thêm. Nhiều buổi livestream, các dụng cụ lại trở chứng trục trặc, Huy và Hùng phải liên tiếp xin lỗi người xem vì sự cố.
Sự mộc mạc của hai em đã chiếm được tình yêu mến của hàng ngàn người khắp bốn phương.
Thế nhưng bằng tình yêu, niềm đam mê, mộc mạc ấy của Huy và Hùng đã chiếm được sự yêu mến của nhiều người.
Mỗi buổi livestream của cặp song sinh này thường thu hút cả nghìn người xem. Trước nghị lực của hai em, rất nhiều người xem đã lập các tài khoản donate (tặng quà), để gửi tặng 2 em và đó cũng là nguồn thu nhập duy nhất của cặp song sinh này.
Cặp song sinh "phiêu" với những bài hát tặng người xem.
"Dự tính cho tương lai sắp tới thì chúng em đang tiếp tục cố gắng để có được những sản phẩm âm nhạc tốt hơn, hát hay hơn gửi tặng đến mọi người", Hùng nói.
Với Huy và Hùng âm nhạc không chỉ là món quà cuộc sống ban tặng cho 2 em, mà nó đã giúp cặp song sinh này tự tin hơn để bước ra khỏi "vùng tối" của chính mình.
Theo Dân Trí
Hai chị em sinh đôi chào đời ở Hàn Quốc đã không hề hay biết sự tồn tại của nhau trong khi một người lớn lên ở Florida, người còn lại ở Philadelphia.
" alt=""/>Cuộc sống 'đặc biệt' của cặp song sinh bạch tạng hiếm gặp-Bốn trụ cột nội dung bao gồm chính trị, tâm linh, nông nghiệp và quân sự được thể hiện trong các sáng tác về lịch sử của anh như thế nào?
Tôi cho rằng các yếu tố này đã tạo nên sự thành công trong các tiểu thuyết lịch sử.
Chẳng hạn như vương triều Tiền Lý là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân kéo dài 60 năm bao gồm các vị vua: Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Lý Đào Lang Vương, Lý Phật Tử. 60 năm thì phải có một nền tảng để tồn tại, tức là phải ưu việt trên các trụ cột.
Triều đại Lý Nam Đế xây chùa Trấn Quốc, đặt tên nước là Vạn Xuân, có đồng tiền Thiên Đức mà khảo cổ học đã tìm thấy thể hiện rõ đời sống từ thượng tầng đến bách dân - chính là đời sống chính trị lành mạnh. Văn hóa thì có những hội đình, đền, chùa, miếu và nghi lễ tập tục, các bô lão được tôn vinh; trẻ nhi đồng biết chơi bi, chơi khăng rồi tục thờ cúng tổ tiên và cha mẹ, dâng hương lên núi Nghĩa Lĩnh thờ Hùng Vương… Đó là sự trưởng thành về văn hóa.
Là một đất nước nông nghiệp thì người đứng đầu buộc phải lo cái ăn cho dân. Và nhà vua, trong các bộ tiểu thuyết của tôi biết dạy muôn dân khơi dẫn sông ngòi, đắp đập, tháo mương, trồng cây lương thực mùa nào thức nấy.
Đặc biệt là trụ cột về quân sự khi nước ta luôn luôn bị xâm phạm, phương Bắc nhòm ngó, nếu không có chiến lược căn cơ để giữ nước thì sẽ không thể bảo vệ lãnh thổ.
Nếu như không có bốn trụ cột đó thì không thể thành một triều đình, không thành thể chế, đó chính là sự minh triết của người Việt. Theo bề dày lịch sử cho đến hôm nay khi đã là đất nước trăm triệu dân, chúng ta đều dựng nước và giữ nước theo tinh thần đó. Muốn yên ổn thì phải hùng mạnh, phải biết về chính trị, quân sự từ việc đóng thuyền, thủy chiến cho đến cả trồng cấy nuôi dân. Những yếu tố đó mang đến cho dân tộc ta sự tự tin và trưởng thành.
Nếu như thực sự hiểu biết và trân trọng thì lịch sử sẽ tôn vinh, là nền tảng cho chúng ta, giúp giải quyết vấn đề quốc gia, câu chuyện của dòng tộc. Đặc biệt, lịch sử chính là văn minh, đừng nghĩ là thứ gì đó xa xôi. Ví dụ như Mị Châu - Trọng Thủy chính là câu chuyện cảnh giác luôn có ý nghĩa tới tận hôm nay. Lịch sử chạm ngay đến hiện tại, đến nhận thức của con người.
-Anh có thần tượng hay chịu ảnh hưởng của ai không?
Đã là nhà văn thì phải làm việc không ngừng, thử thách khả năng sáng tác ở nhiều thể loại. Tôi có một tấm gương để học tập - đó chính là nhà văn Kim Dung.
Kim Dung đã sáng tác khoảng 17 bộ trường thiên tiểu thuyết, sau đó ông còn viết liên thông các bộ sách đó với nhau. Nhiều tác phẩm có giá trị tầm nhân loại với những mẫu nhân vật mang tính toàn cầu theo các cặp phạm trù: thiện - ác, đúng - sai, anh hùng - tiểu nhân. Kim Dung đã giúp cho độc giả khắp nơi hiểu sâu hơn, phong phú hơn về lịch sử, con người, phong tục tập quán Trung Quốc. Thoạt tiên mọi người không hiểu hết giá trị nhưng đó chính là sự bồi đắp văn hóa.
Con đường sáng tác của tôi thì khó khăn hơn, ngay các cụ nhà mình thời Đinh - Lý - Trần - Lê hay ngược về trước đó từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu đến Lý Nam Đế thì vẫn chưa có một dòng chảy mạch lạc về văn học. Lẽ ra cụ Lý Nam Đế phải có tiểu thuyết lịch sử từ lâu chứ không phải đợi đến lúc tôi viết. Việc cần làm đầu tiên là phải định hình các nhân vật lịch sử một cách chính danh, làm khởi nghĩa thế nào, công lao ra sao?
-Anh lấy nguồn tư liệu sáng tác ở đâu, tác phẩm nào anh cảm thấy khó viết nhất và tốn nhiều công sức nhất?
Để có đủ tư liệu sáng tác, tôi phải đi điền dã liên tục, đi từng đình đền thờ các cụ như cụ Triệu Quang Phục thì đi ở đầm Dạ Trạch, cụ Lý Đào Lang Vương đi Thanh Hóa, cụ Lý Phật Tử đi ở Nghệ An, cụ Lý Nam Đế thì đi từ chùa Trấn Quốc đến Thái Nguyên, Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên… Có những nhân vật dày đặc nơi thờ như cụ Ngô Quyền (có hơn 200 nơi), cụ Phùng Hưng cũng vậy. Tôi được các cụ thủ từ đình, thủ từ đền cung cấp cho gia phả, sắc phong ghi chép đầy đủ.
Các nguồn tư liệu chính để tôi tham khảo là Đại Việt sử ký toàn thư cùng các sách sử chính thống như Việt sử lược, An Nam Chí lược, Hoàng Lê nhất thống chí…; tiếp đó là nguồn tư liệu dân gian từ đình đền chùa miếu, thần phả, thần tích…
Cuốn về cụ Lý Nam Đế là khó nhất. Tôi lên ngôi chùa thờ ở Cổ Pháp, Tiên Phong (Phổ Yên, Thái Nguyên) đây cũng là nơi cụ đi tu từ năm 8 đến 18 tuổi. Đến nơi không có sư trụ trì, toàn mấy bà vãi cùng dân vãng lai cư ngụ. Thế mà họ vẫn giữ được ngôi đền. Sau đó, tôi phải lên gặp chính quyền địa phương nhờ can thiệp đưa người về trông coi cẩn thận.
Không phải độc giả đã ngừng đọc
-Quan điểm cá nhân của anh thế nào trước ý kiến cho rằng giới trẻ thời nay đang thờ ơ với lịch sử? Có cách gì để truyền cảm hứng yêu lịch sử, thích đọc tác phẩm về sử sách cho độc giả không?
Đúng là môn lịch sử trong nhà trường lâu nay đang bị kêu nặng nề, khô khan, bọn trẻ dù không thích nhưng buộc phải học để thi. Còn vì sao học sinh không hứng thú với lịch sử thì đó là khuyết điểm của người lớn, đừng trách các em!
Hạn chế ngay từ việc làm sách giáo khoa, sách tham khảo. Dân tộc có hơn 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước, nhiều nhân vật lẫy lừng, nhiều cột mốc đáng nhớ nhưng không được hệ thống một cách khoa học, đầy đủ vào chương trình giáo dục. Chúng ta đang thiếu sự nhiệt huyết khi sáng tác sách lịch sử.
Thậm chí, do thiếu hiểu biết nên cho rằng lịch sử không quan trọng, định ghép vào môn A, môn B nào đó. Thực ra, điều nguy hiểm nhất là kiến thức của người làm sách có vấn đề, động đến nhiều thứ phức tạp, thử thách trí tuệ là bỏ qua cho an toàn. Ví dụ nhắc đến triều Lý, đa phần chỉ nhớ đến Lý Công Uẩn, nhưng còn Lý Nam Đế thì sao, họ có liên hệ thế nào khi cách nhau đến mấy trăm năm? Nên nhớ rằng, thế hệ trẻ càng về sau càng phải hiểu tường minh về lịch sử của nước mình. Nếu sách không có đầy đủ thì các em buộc phải tìm nguồn thông tin khác.
Một dân tộc không thể không có lịch sử, nhưng điều quan trọng là lịch sử đó phải được ghi chép lại một cách tường minh và khoa học, tổng hợp từ nhiều nguồn đáng tin cậy. Ở Việt Nam, muốn tìm kiếm những vấn đề chính sử bằng văn bản thì dựa vào Đại Việt sử ký toàn thưlà chủ yếu, thiếu vắng những tác phẩm viết về lịch sử theo hình thức đa dạng và hấp dẫn người đọc.
- Anh từng nói rằng “Tôi rất sợ một cuốn sách mà chỉ mấy ông nhà văn đọc với nhau”, vậy chúng ta cần làm gì để phát triển văn hóa đọc một cách thực chất, giúp các tác phẩm tiếp cận với đông đảo độc giả?
Đây là một thách thức rất lớn, không phải chỉ riêng các nhà văn Việt Nam. Ngày trước, ông bà ta thích đọc sách, đến lượt thời cha mẹ ta cũng mê sách, nhưng đời các con thì hầu như không đọc, suốt ngày cầm điện thoại. Đó là nỗi lo lắng của nhiều người, nhiều gia đình nhưng theo tôi đó là chuyện bình thường.
Theo xu thế của thời đại, các thiết bị điện tử đang dần thay thế những cuốn sách. Tất nhiên không phải con người đã ngừng đọc mà họ đang chuyển sang một số cách đọc mới mang tính bước ngoặt.
Đối với văn học, mỗi cuốn tiểu thuyết, mỗi tập truyện ngắn, tuyển tập thơ - hồi ký… là những phiên bản gốc. Sau đó, con người sẽ sáng tạo ra các cách truyền tải khác nhau như sách nói, sách hình…
Sứ mệnh của người cầm bút là tạo ra phiên bản gốc hấp dẫn người đọc, đúng chuẩn mực đạo đức, là nền tảng của chính mình. Những việc còn lại cần sự chung tay góp sức của toàn xã hội. Từ các cộng đồng yêu văn học nghệ thuật, người làm xuất bản cho đến cả nhà chính trị nữa. Một đất nước mà dân chỉ cắm cúi cầm điện thoại là gay rồi!
-Chân dung nhà văn Phùng Văn Khai trên văn đàn khá rõ ràng với nhiều đường nét thú vị, còn trong đời thường thì sao? Anh có thể phác họa về mình trong vai trò người chồng, người cha?
Nghiệp viết lách tốn rất nhiều thời gian và công sức, chưa kể có những thời điểm để tập trung sáng tác, tôi gần như đóng cửa, tắt điện thoại, nhốt mình trong phòng. Bởi vậy nếu không có gia đình hỗ trợ thì chẳng thể làm gì.
Phải nói rằng tôi rất may mắn khi tất cả những buổi ra mắt sách của mình, vợ con đều có mặt chia vui. Bà xã trước làm cô giáo, luôn hỗ trợ tôi soạn thảo tác phẩm trên máy tính. Bây giờ cô ấy làm giám đốc một công ty nhỏ về in ấn, xuất bản. Cậu con trai là kỹ sư công trình, con dâu làm bên Viettel, cô con gái đang học Kinh tế năm thứ 3. Mỗi người đều có cuộc sống và sự nghiệp độc lập.
Dù không theo nghề bố nhưng các con cũng chịu khó đọc, viết giới thiệu, thiết kế bìa, làm marketing và cùng với mẹ hỗ trợ đưa sách của bố lên sàn thương mại điện tử như Tiki để tiếp cận với đông đảo độc giả. Đặc biệt là con gái chụp ảnh bìa sách rất đẹp và chuyên nghiệp. Phải khẳng định là tôi rất biết ơn vợ con (cười).
-Xin cảm ơn anh!
Nhà văn Phùng Văn KhaiPhùng Văn Khai sinh năm 1973, tốt nghiệp trường Viết văn Nguyễn Du khóa VI (1998 - 2002). Hiện là Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Các tác phẩm đã ra mắt: Khúc dạo đầu của binh nhì (tập truyện ngắn, 1998), Lửa và hoa(thơ, 2002), Hương đất nung(tập truyện ngắn, 2001), Những người đốt gạch(tập truyện ngắn, 2004), Truyện ngắn Phùng Văn Khai (tập truyện ngắn, 2006), Lẽ sống(bút ký, 2008),Hư thực(tiểu thuyết, 2008), Gió đi dưới trời(bút ký, 2010), Hồ đồ(tiểu thuyết, 2010), Nơi ước mơ hẹn gặp(bút ký, 2012), Mênh mang trời nước(tập truyện ngắn, 2012), Khúc rong chơi(thơ, 2016), Tìm trong dáng đá(bút ký, 2018), Tiếng rừng(tập truyện ngắn, 2019), Những liệt sĩ thời bình(bút ký, 2019)
Đặc biệt, anh được biết đến với các tiểu thuyết lịch sử như:Phùng Vương(2015, tái bản 2018), Ngô Vương(2018),Nam Đế Vạn Xuân(2020), Triệu Vương Phục Quốc(2020), Lý Đào Lang Vương(2021), Lý Phật Tử Định Quốc(2022), Trưng Nữ Vương(tập 1-2023).
Phùng Văn Khai coi tâm Phật là trung tâm ngòi bút của mình, từ đó hòa chung việc đạo, việc đời, việc nước, việc quân tốt tươi nhuần nhụy. Song hành với mạch truyện về cuộc đời và sự nghiệp của các vị hoàng đế, quân vương là những diễn giải và đối thoại về Phật giáo. Tác giả đã mở rộng các vấn đề trọng đại trong lịch sử dân tộc khi nối kết vai trò của Phật giáo với đời sống tinh thần người Việt.
" alt=""/>Giới trẻ không thích đọc sách lịch sử là lỗi của chúng taTrăm năm giếng cổ
Sâu trong con hẻm ngoằn ngoèo của phường 1 (quận Phú Nhuận, TP.HCM) có ngôi miếu Ngũ Hành thuộc sở hữu, quản lý của gia đình ông Võ Văn Nở (56 tuổi). Tuy nhiên, ông Nở và các thành viên trong gia đình đều không nhớ rõ miếu được xây dựng từ năm nào.
Ông Nở cho biết, miếu có từ thời ông nội của mình. Ngoài thông tin miếu được sửa chữa lần đầu tiên vào năm 1949, ông không còn lưu giữ bất kỳ ghi chép, tài liệu nào. Dẫu vậy, ông và người dân địa phương vẫn nhớ như in những ký ức đẹp về ngôi miếu nhỏ cùng cái giếng nằm ở phía trước.
Theo ông Nở, khởi đầu miếu thờ Ngũ Hành nương nương hay còn gọi là 5 mẹ Ngũ Hành. Về sau, miếu thờ thêm Phật Bà Quan Âm, Bà Chúa Xứ…
Vào ngày vía Ngũ Hành nương nương, những người nằm trong ban quản lý miếu tổ chức lễ cúng rất lớn để cầu cho cuộc sống người dân ấm no, hạnh phúc, công việc làm ăn phát đạt. Mỗi khi tổ chức lễ cúng, miếu có hát bóng rỗi, diễn hát bội... thu hút người dân đến xem rất đông.
Ông Nở kể: “Xưa kia, miếu có ban, hội là những người cao tuổi, có uy tín trong làng trông giữ, lo việc cúng bái. Sau này, ban, hội tan rã. Bây giờ, tôi là người tiếp quản, nhận nhiệm vụ trông giữ miếu".
"Xưa kia, không riêng gì ngày lễ, miếu luôn có đông người đến hương khói, lấy nước từ giếng cổ. Tôi được người xưa kể lại rằng, giếng này còn có trước cả miếu Ngũ Hành. Thế nên tôi đoán giếng đã hơn 100 tuổi và là nguồn cấp nước cho những hộ dân sinh sống xung quanh", ông Nở nói thêm.
Các bậc cao niên sinh sống xung quanh ngôi miếu nhỏ nói rằng, trước đây, khu vực này có nhiều giếng đào. Mỗi giếng phục vụ nước sinh hoạt cho khoảng 4 dãy nhà. Tuy vậy, giếng trước miếu Ngũ Hành lớn và có nhiều nước hơn cả.
Đặc biệt, bất kể các giếng nhỏ xung quanh thường xuyên cạn trơ đáy vào mùa khô, giếng trước miếu Ngũ Hành mùa nào cũng đầy ắp nước và luôn trong mát. Khi các giếng nhỏ dần cạn nước hoặc nhiễm phèn, giếng cổ càng trở nên quan trọng.
Chị Võ Thị Cẩm Nhung (SN 1973) là người sinh ra và lớn lên gần giếng cổ. Chị cho biết: “Lúc trước, khi chưa có nước máy, hầu hết dân xung quanh hẻm đều phụ thuộc vào giếng này để có nước sinh hoạt, tưới tiêu hoa màu.
Cũng nhờ giếng này mà người lao động nghèo ở đây có thêm nghề gánh nước thuê. Vào mùa khô, không trữ được nước mưa, những gia đình khá giả thường thuê người dân xung quanh giếng kéo nước lên, gánh đến nhà cho họ.
Nếu tôi nhớ không nhầm thì ngày ấy, các bà, các cô thường gánh nước thuê từ giếng đến tận đường Cô Bắc, Cô Giang cho người ta. Đặc biệt, vào dịp Tết, việc gánh nước thuê càng náo nhiệt”.
Tập tục đóng nắp giếng kỳ lạ
Chị Nhung nhớ như in, từ lúc lên 10 đã được mẹ giao nhiệm vụ kéo nước từ giếng cổ lên đổ vào thùng trữ trong nhà. Ngày trước, miệng giếng còn thấp, nước bên trong không sâu mà chỉ cách miệng 1-2m.
Chị chỉ cần thả dây có cột chiếc thùng nhựa xuống giếng rồi kéo nước lên. Lúc ấy, nước sinh hoạt trong gia đình đều được lấy từ giếng cổ.
Thời điểm ấy, mỗi ngày vào đầu giờ sáng hoặc chiều tối, quanh miệng giếng lại tấp nập người đến lấy nước về nhà, hoặc gánh thuê cho người khác. Thời gian khác trong ngày, giếng được nghỉ ngơi.
Vào dịp Tết, khu vực giếng cổ đông vui, náo nhiệt hơn cả. Dịp này, người dân xung quanh thường cùng nhau đến quanh miệng giếng lấy nước rửa lạt, lá gói bánh tét, nguyên liệu làm mứt…
Đặc biệt, những ngày 28, 29 tháng Chạp, quanh miệng giếng bỗng nhiên đông đúc, náo nhiệt gấp nhiều lần ngày thường. Người người đem theo thùng, vật dụng đến giếng kéo nước, gánh về dự trữ trong nhà.
Mọi người xếp hàng, đứng quanh miệng giếng chờ đến lượt lấy nước rồi hối hả gánh về để kịp quay lại lấy chuyến sau. Nếu không, rất có thể họ sẽ không có nước dùng trong 3 ngày Tết. Bởi, đúng đêm 30, giếng sẽ đóng miệng, không phục vụ nhu cầu lấy nước của người dân nữa.
Ông Nở lý giải: “Ngày còn nhỏ, tôi đã biết đến lễ đậy nắp giếng cổ trước miếu Ngũ Hành vào đêm 30 Tết. Vào đêm giao thừa, ông từ của miếu Ngũ Hành cũng là ông nội tôi sẽ soạn lễ, thắp nhang rồi dùng vỉ sắt đặt lên miệng giếng.
Từ lúc đậy miệng giếng, không ai được mở ra, lấy nước. Đến sáng mùng 3 Tết, ông nội tôi lại soạn lễ, thắp nhang để xin mở nắp giếng. Lúc này, mọi người mới được phép đến giếng lấy nước về dùng.
Tôi không rõ lễ đậy nắp giếng ấy có từ bao giờ, cũng như nguyên nhân như thế nào. Tuy nhiên, khi tôi hỏi, ông nội nói rằng bà Thủy (vị thần cai quản vùng sông nước - PV) đã làm việc cả năm nên ba ngày Tết phải để bà nghỉ ngơi”.
Hiện nay, các hộ dân sinh sống xung quanh giếng cổ đã có nước máy sạch mát, tiện lợi. Tuy nhiên, gia đình ông Nở, gia đình chị Nhung vẫn tiếp tục gìn giữ, bảo quản giếng cổ.
Hàng ngày, những gia đình này và một số hộ dân xung quanh vẫn đến giếng lấy nước về sinh hoạt.
Chị Nhung tâm sự: “Để an toàn, bây giờ miệng giếng được nâng cao, có nắp đậy kiên cố. Hàng ngày, tôi vẫn thả gàu xuống giếng, kéo nước lên sinh hoạt vừa để tiết kiệm vừa như một cách ôn lại kí ức tuổi thơ.
Nhất là những ngày cận Tết, hình ảnh mọi người nô nức đến bên giếng thả gàu kéo nước, gánh về nhà trong không khí tươi vui, đầm ấm trong tôi lại hiện về”.