- Trước phần thi đầy cảm xúc của Khánh Long khi hát ca khúc “Đi đâu để thấy hoa bay” dành tặng người cha đã mất, HLV Phương Thanh đã lặng người và đề nghị được ôm thí sinh. 

Minh Tuyết lần đầu chia sẻ về chuyện con cái sau 5 năm kết hôn" />

Ai sẽ thành sao tập 11 Minh Tuyết xúc động trước thí sinh hát tặng cha đã mất

Giải trí 2025-01-24 11:26:42 1925

 - Trước phần thi đầy cảm xúc của Khánh Long khi hát ca khúc “Đi đâu để thấy hoa bay” dành tặng người cha đã mất,ẽthànhsaotậpMinhTuyếtxúcđộngtrướcthísinhháttặngchađãmấlịch bóng đá đức HLV Phương Thanh đã lặng người và đề nghị được ôm thí sinh. 

Minh Tuyết lần đầu chia sẻ về chuyện con cái sau 5 năm kết hôn
本文地址:http://asia.tour-time.com/news/179c398824.html
版权声明

本文仅代表作者观点,不代表本站立场。
本文系作者授权发表,未经许可,不得转载。

全站热门

Nhận định, soi kèo Farul Constanta vs UTA Arad, 22h00 ngày 20/1: Vượt mặt đối thủ

Tuy nhiên, phải đến nửa cuối năm 2013 đến nay, làng game mobile Việt mới thực sự phát triển mạnh mẽ. Nếu như cách đây 2-3 năm là thời kỳ hoàng kim của Javathì 1 năm trở trở lại đây, game Smartphoneđang chiếm ưu thế rõ rệt. Các NPH do đó cũng nhanh chóng chuyển hướng tập trung vào phân khúc Smartphone với 2 HĐH phổ biến là iOS và Android.

Ngoài ra, phải kể đến số lượng game mobile tăng đột biến cùng nhiều thể loại mới ra đời: game thẻ tướng, quản lý bóng đá, bắn súng…vv. Không khó hiểu khi cuối năm 2013, rất nhiều trang tin game uy tín và chuyên gia trong ngành dự đoán năm 2014 sẽ là năm lên ngôi của game mobile. Các bài báo với nhan đề: Thị trường game mobile online Việt đang “nở hoa”, Webgame “thất thủ” – Game mobile lên ngôi…vv càng làm cho thị trường game dành cho “dế yêu” trở nên sôi động hơn bao giờ hết.

(Minh họa) Smartphone tràn lan thị trường là nguyên nhân không nhỏ dẫn đến sự bùng nổ của game mobile

Thị trường game mobile lớn mạnh kéo theo nhiều hệ quả đi kèm

Sự phát triển của game mobile Việt kéo theo nhiều hệ quả sau đó. Có thể thấy rõ nhất là các cổng phân phối game mobile, trang tin chuyên về game mobile, mạng xã hội game mobile lần lượt ra đời để phục vụ nhu cầu người chơi.

Nếu như cổng phân phối giúp người chơi dễ dàng tìm kiếm những tựa game hot và phù hợp với sở thích của bản thân thì trang tin tức lại đáp ứng nhu cầu tìm hiểu các thông tin nóng hổi của thị trường game mobile, các sản phẩm sắp ra mắt…vv. Gần nhất là mạng xã hội game mobile trở thành cầu nối cộng đồng game thủ, ở đó sự tương tác giữa người và người ở mức cao hơn cả: game thủ có thể trao đổi các vấn đề quan tâm, khoe điểm số, giải đáp thắc mắc của bản thân….vv.

Hệ thống tích hợp “3 trong 1”

Có thể thấy, các NPH, chuyên gia trong ngành…đã khá nhanh chóng và nhạy bén khi chạy kịp thời cuộc, đáp ứng nhu cầu phù hợp của cộng đồng người chơi vào mỗi thời điểm khác nhau với: cổng phân phối, chuyên trang tin tức, mạng xã hội. Điều này thể hiện sự phát triển của công nghệ theo nấc thang tăng dần.

(Minh họa) Công nghệ mobile phát triển theo nấc thang tăng dần

Tuy nhiên, nhận xét 1 cách khách quan chúng ta không thể phủ nhận những yếu tố này vẫn chưa có sự hợp nhất. Ở một mức cao hơn, làng game mobile Việt cần có một hệ thống hội tụ đủ các yếu tố này hay nói cách khác tích hợp “3 trong 1”để cộng đồng dễ dàng đón nhận và sử dụng nhất.

Gần đây, các phương tiện truyền thông có hé lộ thông tin dự án Thư viện game game mobile đầu tiên ở Việt Nam – WikiMobisắp ra mắt. Theo tìm hiểu, WikiMobi chính là hệ thống hội tụ “3 trong 1” và đang gây được sự chú ý không nhỏ đối với cộng đồng cùng các NPH, Studio, Developer trong nước.

WikiMobi là dự án sắp ra mắt thời gian tới

WikiMobi – Sự phát triển tất yếu của công nghệ

Đúng như tên gọi và cũng là điểm ưu việt lớn nhất của WikiMobi– đây được coi là cuốn “Bách khoa toàn thư” hay Thư viện mở về game mobile đầu tiên và lớn nhất Việt Nam. Bất cứ thông tin nào về game mobile người dùng cũng có thể tìm thấy tại WikiMobi: thông tin các NPH, nên tải game mobile nào đang hot, các tin tức giải trí hấp dẫn, tương tác giữa người chơi với nhau…vv.

Thư viện mở về game mobile đầu tiên Việt Nam - WikiMobi

Với tiện ích “3 trong 1”, WikiMobiđem đến sự nhanh chóng và thuận lợi nhất cho không chỉ cộng đồng mà còn là cầu nối hữu ích giúp NPH, Developer, Studio và game thủ sát lại gần nhau hơn. Vì 1 nền công nghiệp game mobile tiên tiến và bền vững của Việt Nam.

Kết  luận

Với sự phát triển như “vũ bão” của thị trường game cho “dế yêu” hiện nay, Thư viện mở về game mobile – WikiMobiđược coi là bước phát triển tất yếu của công nghệ, của xu thế phát triển. Chúng ta hãy cùng chờ xem WikiMobi sẽ đem lại những “cơn gió mới” cho làng game mobile Việt như thế nào trong thời gian tới.

July.N

">

Thư viện game – Xu hướng tất yếu của thời đại

Trên máy ảnh số, số điểm ảnh (megapixel) không phải yếu tố quan trọng nhất mà chính là tốc độ. Với tư cách một hãng chuyên sản xuất thiết bị điện tử, bao gồm cả máy ảnh và điện thoại, Samsung hiểu rõ điều này. Galaxy S5 của hãng là smartphone đầu tiên sử dụng công nghệ lấy nét theo pha (phase detection autofocus) nhờ cảm biến ISOCELL.

Đây là công nghệ chỉ xuất hiện trên máy ảnh chuyên nghiệp, chưa từng có trên điện thoại thông minh hay máy ảnh du lịch. Nó kết hợp với chế độ tự động lấy nét dựa theo độ tương phản tiêu chuẩn của S5 để máy lấy nét chủ thể nhanh và chính xác dù ở trong điều kiện sáng nào. Galaxy S5 có thể lấy nét trong 0,3 giây.

Tự động lấy nét bằng laser

galaxy s5 giảm giá, lg g3 giá bao nhiêu, oppo find 7a giá bao nhiêu

Không để Samsung qua mặt, LG cũng giới thiệu công nghệ ảnh mới trên G3, đó là hệ thống lấy nét bằng laser (Laser AF) kết hợp với bộ ổn định hình ảnh quang học (OIS). Mô-đun trên máy ảnh G3 phát ra các xung ánh sáng hồng ngoại cường độ thấp, sau đó, cảm biến hồng ngoại bên phái máy ảnh G3 chờ tia sáng phản xạ trở lại để thu nhận hình anh chủ thể. Cơ chế này cho phép g3 lấy nét chủ thể chỉ trong 0,276 giây trong điều kiện lý tưởng.

Sạc pin siêu tốc

">

5 công nghệ độc đáo chỉ có trong smartphone 2014


- - -

Đêm đã khuya, Thời Dao nằm trên giường, nhắm mắt lại cố gắng ngủ nhưng vẫn không tài nào ngủ được, cuối cùng cô ngồi dậy, tìm điện thoại bên gối, vén chăn xuống giường, đi về phía cửa sổ.

Thời Dao nhìn bóng đêm nặng nề ngoài cửa sổ một lúc lâu, sau đó như đã hạ quyết tâm, giơ ngón tay mở màn hình, vào danh bạ.

Cô lướt mất lần, ngón tay di đến cái tên Lâm Gia Ca thì dừng lại.

Thời Dao nhìn chằm chằm ba chữ này, ánh mắt lay động, cuối cùng cũng nhấn nút gọi.

Cô vốn muốn bấm nút gọi, nhưng đầu ngón tay còn chưa đụng đến nút có hình điện thoại, liền dừng lại.

Cô do dự, chần chừ một chút, cuối cùng chọn nhắn tin.

Cô soạn một tin nhắn rất lâu:

"Lâm Gia Ca, em là Thời Dao."

"Em muốn nói cho anh biết, em muốn hủy hôn."

Sau khi gõ xong hai câu này, cô liền kiểm tra lại câu chữ, sau đó gửi tin nhắn đi.

Sau khi tin nhắn được gửi thành công, Thời Dao mới thở phào nhẹ nhõm, cúi đầu nhìn về phía điện thoại di động.

Đã hai giờ sáng, Thời Dao nghĩ thầm, Lâm Gia Ca chắc đang ngủ rồi, cho dù có nhận được tin nhắn, có thể ngày mai đối phương mới có thể đọc được.

Cô nhìn chằm chằm màn hình một lúc lâu, sau đó cất điện thoại, chuẩn bị quay lại giường, nhưng cô còn chưa đi đến bên giường, điện thoại di động trong tay lại "ding" một tiếng báo có tin nhắn tới. Thời Dao nhìn vào màn hình điện thoại, là Lâm Gia Ca trả lời tin nhắn của cô, chỉ một chữ: "Thật?"
">

Truyện Thời Gian Bên Em Đều Tuyệt Với

Nhận định, soi kèo Khor Fakkan vs Ajman Club, 20h05 ngày 21/1: Cửa trên thắng thế

ư

 

Ni Ni

">

Nàng Hoắc Tú Tú của Đạo Mộ Bút Ký dịu dàng mềm mại


"Liêu Trai chí dị: Thư danh, Thanh Bồ Tùng Linh (1640-1715) trước. Đoản thiên tiểu thuyết tập, thập nhị quyển, nhất tác thập lục quyển, cộng tứ bách tam thập nhất thiên. Tối tảo hữu Chú Tuyết Trai sao bản, Càn Long tam thập nhất niên (1766 niên) Thanh Kha Đình khắc bản, nhị giả phân quyển, thiên mục lược dị. 1949 niên hậu phát hiện bán bộ thủ cảo, 1955 niên do Văn học Cổ tịch san hành xã ảnh ấn, 1978 niên Thuợng Hải Cổ tịch xuất bản xã hữu Trương Hữu Hạc tập hiệu "Hội hiệu hội chú hội bình" bản, hiệu hoàn bị. Cai thư hàm truyền kỳ, chí quái, dị sự đẳng nội dung. Nhiên đa tả hồ quỷ, yêu biến, dị quái cố sự, nghệ thuật thủy bình trăn chí văn ngôn tiểu thuyết đỉnh phong" (Liêu Trai chí dị: tên sách, Bồ Tùng Linh (1640-1715) thời Thanh sáng tác, là tập truyện ngắn, gồm 12 quyển, có khi chia làm 16 quyển, cộng 431 truyện. Cổ nhất có bản sao của Chú Tuyết Trai, năm Càn Long thứ 31 (1766) Kha Đình khắc bản, hai bản chia quyển, mục lục hơi khác nhau. Sau 1949 phát hiện được nửa bản viết tay của tác giả, năm 1955 Văn học cổ tịch san hành xã in ảnh xuất bản, năm 1978 Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã có bản "Hội hiệu hội chú hội bình" của Trương Hữu Hạc tập hợp so sánh các bản, đầy đủ hơn cả. Sách này mang nội dung truyền kỳ, chí quái, việc lạ, nhưng phần lớn kê chuyện cổ hồ quỷ, yêu ma, quái dị, về trình độ nghệ thuật thì đạt tới đỉnh cao của tiểu thuyết văn ngôn). 

Trên đây là sáu định nghĩa về mục từ "Liêu Trai chí dị” nêu trong sáu quyển từ điển của Trung Hoa mà theo thứ tự là Từ nguyên (Chính tục biên hợp đính bản), Thương vụ ấn thu quán xuất bản, Thượng Hải, 1939; Từ hai (hợp đính bản), Trung Hoa thư cục xuất bản, Thuợng Hải, 1948; Trung văn đại từ điển. Trung Quốc văn hóa Nghiên cứu sở xuất bản, Đài Bắc, 1962 Từ hải, Tân thư xuất bản xã, Thượng Hải, 1989; Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển, Tác giả xuất bản xã, Bắc Kinh, 1991 và Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển, Quảng Tây dân tộc xuất bản xã, 1994. Dễ nhận ra rằng đặc điểm về mục đích và hoàn cảnh biên soạn riêng biệt của mỗi quyển từ điển đã dẫn tới những khác biệt giữa các định nghĩa nói trên, sự khác biệt thể hiện và phản ảnh quá trình nhận thức và tìm hiểu của người đọc Trung Hoa về Liêu Trai chí dị, song tựu trung sáu định nghĩa ấy đều đề cập tới bốn yếu tố là văn bản, nội dung, ý nghĩa và nghệ thuật của tác phẩm. Việc tìm hiểu giá trị tác phẩm khởi đi từ tổng thể các yếu tố ấy có thể góp phần làm sáng tỏ thêm giá trị và ảnh hưởng của Liêu Trai chí dị, một kiệt tác hàng trăm năm qua từng làm say mê nhiều người đọc Việt Nam. 

Về văn bản, Liêu Trai chí dị có một nét đặc biệt. Theo Từ hải 1989 và Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991 thì Liêu Trai chí dị gồm 12 quyển, 488 hay 491 truyện. Các con số trên rõ ràng là dựa theo bản Hội hiệu hội chú hội bình, mà bản này dựa trên cơ sở nửa bản chép tay của Bồ Tùng Linh được phát hiện sau 1949. Tuy nhiên, sự ghi nhận về văn bản Liêu Trai chí dị ở Trung Quốc cũng khá phức tạp. Chẳng hạn Từ nguyên năm 1939 kể là có 16 quyển, 431 truyện, Từ hải 1948 kể là có 8 hoặc 16 quyển, 431 truyện, đến Trung văn đại từ điển xuất bản ở Đài Loan năm 1962 thì vẫn kể ra 8 hoặc 16 quyển, 431 truyện như Tù hải 1948. Tù hải 1989 không nêu rõ, nhưng cũng cho rằng bản Hội hiệu hội chú hội bình là đầy đủ hơn cả, tức cũng tán thành con số 12 quyển, 491 truyện như Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991. Nhưng Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển 1994 lại kể ra 12 (hoặc 16) quyển, 431 truyện, nghĩa là lại quay về với các văn bản truyền thống. Nét đặc biệt này không gì khác hơn là ánh phản của quá trình phổ biến Liêu Trai chí dị ở Trung Quốc nói riêng và ở các quốc gia dùng chữ Hán trước đây nói chung. Chúng tôi không có được các bản in Liêu Trai chí dị 12 quyển để đối chiếu, nhưng Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển có kể ra một số truyện thuộc "Văn hóa Ma Trung Quốc” theo mục lục của các bản này, cụ thể như sau: 

Khảo Thành hoàng, Thi biến, Đồng nhân ngữ, Giáo quỷ, Vương Lục lang, Trường Thanh tăng, Tăng nghiệt, Tú thập thiên, Vương Lan, Ung hổ thần, Hoa bì, Thiểm Hữu Mỗ Công, Miếu quỷ, Lục phán, Nhiếp Tiểu Thiến, Thủy mãng thảo, Cảnh Thập bát thuộc quyển I. 

Châu nhi, Liên Hương, Trương Thành, Xảo nương, Ngô huyện nhị Thành hoàng, Lâm Tứ nương thuộc quyển II. 

Giang trung quỷ quái, Lỗ Công nữ, Lý Trung Chi, Lý Bá Ngôn, Liên Toa, Nê quỷ, Liên Thành, Hoắc sinh, Dụ quỷ, Lý Tư giám thuộc quyển III. 

Công Tôn Cửu Nương, Xúc chức, Thổ địa phu nhân, Tục hoàng lương, Liễu Tú tài, Phong Đô Ngự sử, Kỳ quỷ, Tửu cuồng Mục sinh, Bố khách thuộc quyển IV. Chương A Đoan, Lý Thường Cửu kiến Diêm Vương, Thổ ngẫu sinh tử, Trường Trị nữ tu, Ngũ Thu Nguyệt, Liễu thị tử, Đậu thị thuộc quyển V. 

Thu Dung dữ Tiếu Tạ, Ải quỷ, Khao tệ ty, Hướng Cảo, Nhiếp Chính xích quyền quý thuộc quyển VI. Mai nữ hòa Phong Vân Đình, Tư tăng bão Phật đầu, Ngưu Thành Chương, Kim Cô phu, Diêm La hoăng, Chu Thương bình oan ngục, Hoạn Nương thuộc quyển VII. Quỷ thê, Chư sinh, Tư văn lang, Trần Tích Cửu, Chu Khắc Xương thuộc quyển 8. Vu Khứ ác, ái Nô, Lưu phu nhân, Ấp nhân tao lăng trì thuộc quyển IX. Bố thương bị cứu, Tịch Phương Bình, Long Phi tướng Công, Thân thị, Nhiệm Tú thuộc quyển X. Vãn Hà dữ A Đoan, Vương Thập, Gia Bình Công tử, Chiết lâu nhân thuộc quyển XI. Lão Long thuyền hộ, Cổ bình, Nguyên Thiếu tiên sinh, Tiết Ủy nương, Điền Tử Thành, Lưu Toàn, Hoàn hầu yến tân, Cẩm Sắt, Phòng Văn Thục, Công Tôn Hạ thuộc quyển XlI. 

Ngoài một số truyện có tên khác với trong các bản 16 quyển như Giang trung quỷ quái (Giang trung, quyển XIV), Lý Trung Chi (Diêm La, quyển XIV), Tửu cuồng Mục sinh (Tửu cuồng, quyển XlV), Lý Thường Cửu kiến Diêm Vương (Diêm Vương, quyển XV), Thổ ngẫu sinh tư (Thổ ngẫu, quyển XV), Thu Dung dữ Tiểu Tạ (Tiểu Tạ, quyển IX), Nhiếp Chính hách quyền quý. (Nhiếp Chính, quyển VIII), Mai nữ hòa Phong Vân Đình (Mai nữ, quyển VII), Tử tăng bão Phật đầu (Tử tăng, quyển XIV), Chu Thương bình oan ngục (Oan ngục, quyển IX), Ấp nhân tao lăng trì (ấp nhân, quyển XVI), Bố thương bị cứu (Bố thương, quyển XI), Vãn Hà dữ A Đoam (Vãn Hà, quyển IV), Hoàn hầu yến tân (Hoàn hầu, quyển XII), thì theo nội dung được tóm tắt, có một số truyện không thấy có trong các bản 16 quyển như Ngô Huyện nhị Thành hoàng, Dụ quỷ, Thô địa phu nhân (ngoài ra, bản dịch Liêu Trai chí dị ra chữ quốc ngữ la tinh vào loại sớm nhất ở miền Bắc là Tân Liêu Trai của Vũ Hi Tô * dịch 8 truyện Hương Ngọc, Thư si, Lỗ Công nữ, Phòng Dỹ, Phượng Tiên, Lục y nữ, Chúc Thanh, Chức Thành thì truyện Phòng Dỹ cũng không thấy có trong các bản Liêu Trai chí dị 16 quyển). Tuy nhiên, đó chính là các truyện Ngô lệnh, Dụ quỷ, Nữ quỷ trong Liêu Trai chí dị thập di **. Nhưng đáng nói là chính Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển cũng vừa ghi nhận các truyện Ngô Huyện nhị Thành hoàng, Dụ quỷ, Thổ địa phu nhân trong Liêu Trai chí dị vừa ghi nhận các truyện Ngô lệnh, Dụ quỷ, Nữ quỷ trong Liêu Trai chí dị thập di: rõ ràng các bản Liêu Trai chí dị 12 quyển đã gộp cả Liêu Trai chí dị thập di. Tóm lại Liêu Trai chí dị 12 quyển là sự hợp nhất Liêu Trai chí dị và Liêu Trai chí dị thập di của Bồ Tùng Linh. Có lẽ sau khi biên soạn Liêu Trai chí dị thập di, Bồ Tùng Linh đã tiến hành hợp nhất cả hai làm một với kết cấu 12 quyển có sửa chữa, bổ sung. Công việc này hoặc chưa hoàn tất, hoặc một nửa bản thảo của bản "tập đại thành” nói trên đã bị mất. Cần nói thêm rằng bản Hội hiệu hội chú hội bình cũng có những chỗ chưa hợp lý: nhan đề truyện Mai nữ đã đuợc đổi thành Mai nữ hòa Phong Vân Đình (Cô gái họ Mai và Phong Vân Đình), từ “hòa" (và) này không phải của văn pháp văn ngôn thời Bồ Tùng Linh mà là của văn chương bạch thoại... Rõ ràng vấn đề văn bản Liêu Trai chí dị chưa phải đã chấm dứt ở bản Hội hiệu hội chú hội bình, nên tình hình nói trên cũng cho phép người ta yên tâm khi đọc các văn bản truyền thống gồm Liêu Trai chí dị và Liêu Trai chí dị thập di. 

* Tân Liêu Trai, Transcrit en quốc ngữ par Vũ Hi Tô, 1er édition, Đỗ Văn thư quán (ấn). Sửa lại và giữ quyền lợi: Phù Văn Librairie, Hà Nội, 1921-1922. Tất cả 2 quyển, quyển 1 có các truyện Tích nàng Hưong Ngọc (Hương Ngọc), Thư si, Lỗ Công nữ, Phòng Dỹ (?), quyển 2 có các truyện Phương Tiên, Lục y nữ, Chúc Thanh, Chúc Thành. 

**. Ở đây chúng tôi theo văn bản trong Liêu Trai chí dị thập di, Minh Đức Đồ thư Công ty xb., Hương Cảng, 1961. 

Về Liêu Trai chí di thập di, Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển định nghĩa như sau “Liêu Trai chí dị thập di. Thư danh, Thanh Bồ Tùng Linh soạn, bút ký tiểu thuyết tập, nhất quyển. Cai thư vi Liêu Trai chí dị thập di bộ phận, hữu Dân quốc so niên Thượng Hải Tiến bộ đồ thư cục thạch ấn bản, Bút ký tiểu thuyết đại quan bản. Nội dung đồng tiền thư, thư trung thu hữu Dụ quỷ, Nữ quỷ, Quỷ lại đảng đa điều quỷ thoại" (Liêu Trai chí dị thập di. Tên sách, Bồ Tùng Linh thời Thanh soạn, là một tập bút ký tiểu thuyết, một quyển. Sách này là phần bổ sung của Liêu Trai chí dị, có bản thạch ấn của Thượng Hải Tiến bộ đồ thư cục và bản Bút ký tiểu thuyết đại quan đầu thời Dân quốc. Nội dung cũng như sách trước, thu thập nhiều chuyện ma nhu Dụ quỷ, Nữ quỷ, Quỷ lại). Theo bản Liêu Trai chí dị thập di, Minh Đức Đồ thư Công ty tái bản, Hương Cảng, 1961 mà chúng tôi sử dụng, quyển Thập di này có tất cả 68 truyện (xem Mục lục) 

Về con số 431 truyện thì có điểm hơi lạ, vì bản Tường chú Liêu Trai chí di đồ vịnh, Quảng Trí thư cục, Hương Cảng, 1961 (ảnh ấn lại bản in thạch bản Tường chú Liêu Trai chí dị đồ vịnh năm Quang Tự thứ 12 - 1886, gọi tắt là bản Hương Cảng) và bản Túc bản Liêu Trai chí dị, Đại Trung Quốc Đồ thư Công ty, Đài Bắc, 1963 (gọi tắt là bản Đài Bắc) đều có 432 truyện (Từ điển tác gia văn học và sân khấu nước ngoài, Hữu Ngọc chủ biên, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1980 cũng ghi nhận con số này). Trong hoàn cảnh tư liệu hiện nay chúng tôi chưa tìm hiểu được vấn đề nói trên, nên căn cứ vào thực tế văn bản của hai bản Hương Cảng và Đài Bắc có trong tay, tạm thời chấp nhận con số 432 truyện. Như vậy, kể cả 68 truyện trong quyển Thập di, Liêu Trai chí di có đúng 500 truyện, không kể một số truyện trong các tài liệu khác được chép phụ vào. Tìm hiểu văn bản Liêu Trai chí dị ngoài tác dụng góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành của tác phẩm còn ít nhiều có tác dụng trực tiếp trong việc tìm hiểu nội dung và ý nghĩa các truyện trong tác phẩm. Nhìn từ kết cấu hình thức, các truyện trong Liêu Trai chí dị gồm hai loại: một loại có lời bình của tác giả, phần nhiều có ghi "Dị Sử thị nói" (193 truyện, trong đó phần Thập di có 7 truyện, nếu kể cả nhũng truyện có lời bình nhưng không ghi “Dị Sử thị nói" như Phục hỏa trong quyển II, Thủy tai trong quyển III, A Hà trong quyển VI, Thâu đào, Khâu kỹ trong quyển XIII thì có trên 200) và một loại chỉ có phần “chí dị”. Quan sát các bản 16 quyển, có thể thấy các truyện có lời bình "Dị Sử thị nói" tập trung trong khoảng mười hai quyển đầu (121/233 truyện), các truyện này nhìn chung khá dài, có bố cục chặt chẽ, cốt truyện rõ ràng, còn các truyện không có lời bình chủ yếu tập trung ở bốn quyển cuối (134/199 truyện) và quyển Thập di (61/68 truyện), nội dung khá đơn giản, thậm chí có khi chỉ gồm vài mươi chữ. Rõ ràng Liêu Trai chí dị còn đang trong giai đoạn bổ sung, sửa chữa, nhất là những truyện chỉ có phần "chí dị". Nói một cách hình tượng thì Liêu Trai chí dị giống một bộ tranh liên hoàn đang vẽ dở dang, có bức đã tỉa tót tô điểm tới từng chi tiết, nhung có búc chỉ mới có vài nét phác họa đầu tiên. Tình hình văn bản chưa hoàn chỉnh như vậy một mặt dễ đưa tới nhũng ngộ nhận về nội dung cụ thể của từng truyện, mặt khác cũng ít nhiều hạn chế việc tìm hiểu ý nghĩa đích thực của toàn bộ tác phẩm. 

Về nội dung, các truyện có lời bình trong Liêu Trai chí dị nói chung mang màu sắc đạo đức, lên án bọn tham quan ô lại, phê phán những thói hư tật xấu, đề cao lương tri và lòng nhân nghĩa, ca ngợi tình yêu và sự thủy chung. Là một nhà nho tài hoa sinh bất phùng thời, tác giả Liêu Trai chí dị có điều kiện để sống cuộc sống và học cách nghĩ của nhân dân, nên các giá trị tinh thần mà ông đề cao không chỉ nằm trong khuôn khổ chuẩn mục đạo đức của các môn sinh sân Trình cửa Khổng. Ông hâm mộ viên Phán quan họ Lục hào sảng (Lục phán), ông ca ngợi nàng Anh Ninh như vô tâm mà lại hữu tâm (Anh Ninh), ông tán thưởng thái độ nhân sinh khoáng đạt của ông già họ Chúc coi chết như về (Chúc ông), ông khoái trá về việc bọn tham quan bị quỷ thần trừng trị (Vương giả)... Cũng dễ nhận thấy các nhân vật thần tiên hồ quỷ trong Liêu Trai chí dị đều ít nhiều mang dáng vẻ thị dân, cũng không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhân vật hồ nữ trong Liêu Trai chí dị đều khá phóng túng trong tình dục và hôn nhân, điều này có liên quan tới bối cảnh văn hóa Trung Quốc thời Minh Thanh, khi sự phát triển của tiểu thủ Công nghiệp và thương nghiệp đã dẫn tới sự hình thành các đô thị lớn với đội ngũ thị dân có lối sống phát triển theo xu thế phủ nhận các quy phạm lễ giáo phong kiến. Có thể nói trong Liêu Trai chí dị, Bồ Tùng Linh đã đứng trên lập trường đạo đức của nhân dân lao động mà chủ yếu là thị dân để khẳng định các giá trị tinh thần tốt đẹp và lên án những thế lực chống lại con người. Dĩ nhiên lập trường và tiêu chuẩn ấy có những mâu thuẫn nội tại cũng như những hạn chế lịch sử, như nhận định của Từ hải 1989 “trong sách cũng còn tồn tại một ít quan niệm nhân quả báo ứng và màu sắc mê tín” hay của Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991 “trong sách cũng còn tồn tại quan niệm luân lý phong kiến và màu sắc phong kiến". Tuy nhiên, đúng như K. Marx từng nhận định “Con người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là trong những điểu kiện trục tiếp có trước mắt, đã có sẵn và do quá khứ để lại"(1), những yếu tố ấy lại mang ý nghĩa tích cực nếu đặt vào bối cảnh xã hội Trung Quốc đương thời. Dưới chế độ phong kiến chuyên chế thời trước thì khát vọng công lý của người dân thấp cổ bé miệng chủ yếu chỉ còn là giấc mộng, nên họ đành tìm tới sự công bằng ở thế giới bên kia. Quan niệm nhân quả báo ứng có nguồn gốc từ Phật giáo vì vậy cũng mau chóng được nhân dân lao động và những người đại diện của họ tiếp nhận như một võ khí tinh thần để khẳng định hệ giá trị của mình và đấu tranh với nhũng bất công xã hội. Việc chọn lựa phương tiện không tương xứng với mục đích như thế là một điều bất đắc dĩ, nhưng rõ ràng trong giới hạn những điều kiện xã hội - nghệ thuật có thật của thời đại và xã hội mình ấy, Bồ Tùng Linh đã nỗ lục để nêu ra một thực trạng tỉnh thần mà cũng là một thông điệp nhân sinh. 

1 K. Marx và F. Engels, Tuyển tập, sđd., tập II, tr. 386 

Nhận định về truyện ngắn viết cho trẻ em của nhà văn Đan Mạch Hans Christian Andersen (1805-1875), có người đã nói đại ý là trong mỗi truyện ngắn của Andersen có hai câu chuyện, một dành cho trẻ em và một dành cho người lớn. Cũng có thể đưa ra một nhận dịnh tương tự về Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh, vì quả thật nhiều truyện trong tác phẩm - đặc biệt là những truyện có lời bình cũng hàm chứa hai câu chuyện, một là chuyện thần tiên hồ quỷ, một là chuyện người. Những truyện như Tiền lưu, Long hý thù, Điểu ngữ trong quyển X, Hồng mao chiên, Đạo hộ trong quyển XII, Tư huấn, Mạ áp trong quyển XIII... là những ví dụ khá tiêu biểu. Ý đồ bành trướng thế lực - chiếm đoạt thuộc địa của tư bản phương Tây đối với Trung Quốc lúc bấy giờ còn chưa rõ ràng, song hình ảnh tấm nệm Hồng Mao có thể mau lẹ "nở rộng ra hơn một mẫu” trong Hồng mao chiên đã thể hiện nhận thức và dự cảm về tai họa tới từ phương Tây tư bản của một bộ phận trí thức và nhân dân Trung Quốc thời Bồ Tùng Linh. Ý nghĩa hiện thực của Liêu Trai chí dị do đó nhiều khi trở nên sắc nét và có tác động mạnh mẽ lạ thường, vì yếu tố thần kỳ đã nâng cánh cho trí tưởng tượng không chỉ của tác giả mà còn cả của người đọc khi tiếp xúc với tác phẩm. Về phía Bồ Tùng Linh, danh hiệu “Dị Sử thị” cuối lời bình gần 200 truyện trong Liêu Traỉ chí dị còn ít nhiều cho thấy ông mong mượn bộ sách này trở thành một bộ “sử lạ” một bộ sách phản ảnh hiện thực thông qua thi pháp "thuật kỳ ký dị” (thuật chuyện hay, chép chuyện lạ) của dòng truyện truyền kỳ. Có thể nghĩ rằng những truyện chỉ có phần “chí dị” cũng được Bồ Tùng Linh thu thập để biên soạn theo đường hướng nói trên, điều này khiến yếu tố thần kỳ ở đây mang một nội dung chúc năng phức hợp. 

Tìm hiểu nghệ thuật Liêu Trai chí dị, dễ nhận thấy sự hiện diện của yếu tố thần kỳ. Là đặc trưng cơ bản trong thi pháp của truyện truyền kỳ thời Đường, yếu tố thần kỳ đến Thái bình quảng ký thời Tống đã được xác định như nội dung nghệ thuật chủ yếu của tiểu thuyết chí quái chí dị, rồi đến thời Minh Thanh đã phát triển thành một phương pháp sáng tác với các tác giả như Bồ Tùng Linh, Viên Mai. Sự vận dụng thi pháp “thuật kỳ ký dị" vào việc phản ảnh hiện thực xã hội trên đường huớng đề cao các giá trị tinh thần nhân dân - thị dân đã khiến dòng tiểu thuyết chí quái chí dị thời Minh Thanh dần dần mang nội dung hiện thực chủ nghĩa. Có thể nói đây là một loại "chủ nghĩa hiện thực huyền ảo" kiểu phương Đông thời cổ, ở đó thế giới thần tiên hồ quỷ trong trí tưởng tượng của con người đã trở thành một phương tiện đặc biệt để phản ảnh hiện thực xã hội và biểu đạt nguyện vọng nhân sinh. Nhưng khác với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo thế kỷ XX, phương pháp sáng tác này ở Bồ Tùng Linh lại có mối liên hệ máu thịt với văn hóa truyền thống, vì Liêu Trai chí dị sử dụng cốt truyện của nhiều truyện cổ lưu hành đương thời và các sáng tác của người trước”, trong đó chắc chắn có không ít là truyện kể dân gian. Không lạ gì mà Liêu Trai chí dị có thể làm say mê cả những người ít học. Bởi vì trong mọi xã hội và thời đại, các yếu tố văn hóa truyền thống luôn sống cuộc sống của chúng không chỉ trong nhũng văn hiến thư tịch hay các công trình khảo cứu của giới trí thức, mà chủ yếu và quan trọng nhất là trong cuộc sống thường nhật với những mối bận tâm chung nhất của đông đảo nhân dân. Đây cũng là một trong những lý do khiến tác phẩm này của Bồ Tùng Linh bắt đầu đuợc phổ biến rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Chắt lọc và kết tinh nhiều yếu tố tinh túy của văn hóa nhân dân, Liêu Trai chí dị mang trong nội dung tư tưởng và nội dung nghệ thuật của nó những sức mạnh to lón của truyền thống, điều này tạo ra một sự đồng cảm giữa tác phẩm với người đọc Việt Nam lúc bấy gìơ đang phải giã từ quá khứ để bước vào xã hội hiện đại trong một tư thế bị động, với một tâm thế bị động dường như vẫn không ngừng được duy trì cho đến tận hôm nay... 

Dịch Liêu Trai Chí Dị 

Chưa có bằng chứng để xác định thời điểm Liêu Trai chí dị bắt đầu được phổ biến qua Việt Nam, song căn cứ vào niên đại bản in sớm nhất còn lại đến nay của tác phẩm này (bản in Kha Đình năm Càn Long thứ 31 - 1766) thì có thể đoán định sau khi đất nước thống nhất trở lại đầu thế kỷ XIX, người Việt Nam đã biết tới Liêu Trai chí dị. Tình hình tư liệu hiện nay cũng chưa cho phép trả lời câu hỏi người Việt Nam có dịch Liêu Trai chí dị ra chữ Nôm không, song đã có tình hình một số truyện trong Liêu Trai chí dị được sao chép riêng rời như những truyện kể độc lập trong kho sách Hán Nôm Việt Nam, chẳng hạn tập Thư mục Di san Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (Catalogue des livres en Hán Nôm) của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tập II, tr. 99 đã kể cả truyện La Tổ trong bản La Tổ truyện ký hiệu A. 2560 vào thư mục sách Hán Nôm Việt Nam, trong khi đó là truyện La Tổ trong Liêu Trai chí dị, quyển IX: có lẽ người soạn mục từ này đã lầm tưởng địa danh "Tức Mặc” thuộc tỉnh Son Đông ở Trung Quốc trong truyện là Túc Mặc thuộc tỉnh Nam Định ở miền Bắc Việt Nam. Ngoài ra người ta cũng đã thấy trường hợp một số truyện cổ tích Việt Nam lưu truyền đến nay mang dáng dấp cốt truyện, tình tiết một số truyện trong Liêu Trai chí dị như một loại phức thể “song ngữ và song văn hóa”: rõ ràng ngoài việc phổ biến bằng văn bản, tác phẩm này còn được phổ biến với phương thức truyền miệng trong dân gian. Cũng có thể tìm thấy dấu vết ảnh hưởng của Liêu Trai chí dị trong văn học Việt Nam thế kỷ XX qua những câu thơ như “Giấc hồ thơm tóc gái Liêu Trai” của Vũ Hoàng Chương. Tất cả những điều nói trên là kết quả của quá trình tiếp nhận Liêu Trai chí dị ở Việt Nam, quá trình trong đó các bản dịch tác phẩm này ra chữ quốc ngữ latinh thế kỷ XX đóng vai trò tác nhân quan trọng. 

Là khu vực sử dụng chữ quốc ngữ latinh như chữ viết chính thức đầu tiên ở Việt Nam, Nam Kỳ Lục tỉnh cũng là khu vực mà các bản dịch Liêu Trai chí dị ra chữ quốc ngữ latinh xuất hiện sớm nhất. Trước Liêu Trai chí di của nhóm Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Ngô Tường Vân (5 quyển, Nhà in J. Viết, Sài Gòn) năm 1916-1918(1), người đọc Lục tỉnh đã được đọc: 

bản dịch nhiều truyện trong Liêu Trai chí dị ra tiếng Việt trên báo chí quốc ngữ la tinh, chẳng hạn các bản dịch của Lương Dũ Thúc, Lương Hòa Quý, Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Đoan Khai... trên Nông cổ mín đàm từ 1901(2). Hơn thế nữa, từ Chuyện giải buồn năm 1885, Huỳnh Tịnh Của đã giới thiệu bản dịch một số truyện trong Liêu Trai chí dị, nhưng hàng trăm năm nay nhiều người vẫn tuởng đó là truyện Việt Nam, chẳng hạn truyện Hắc quỷ (Nô lệ da đen) trong Liêu Trai chí dị, quyển XIV: Giao Châu Lý Tổng trấn mãi nhị hắc quỷ, kỳ hắc như tất, túc cách thô hậu, lập nhẫn vi đồ vãng lai kỳ thượng hào vô sở tổn. Tổng trấn phối dĩ xướng, sinh tử nhi bạch, liêu bộc hý chi, vị phi kỳ chủng. Hắc quy diệc tự nghi, nhân sát tử, cốt tắc tận hắc, thủy hối chi. Công mỗi lệnh lưỡng quỷ đối vũ, thần tình diệc khả quan dã. (Tổng trấn họ Lý ở Giao Châu mua được hai tên nô da đen, đen bóng như sơn, da chân chai cộm lên, cắm ngược đao đưa mũi nhọn lên cho họ đạp lên đi lại cũng không hề hấn gì. Tổng trấn cưới kỹ nữ cho làm vợ, sinh được con trai da lại trắng, bọn đầy tớ trong nhà đùa giỡn, nói là không phải con y. Tên nô da đen nghi ngờ, giết chết đứa con thì xương đều đen, mới hối hận. Tổng trấn thường sai hai người đối diện với nhau múa hát, thần thái điệu bộ cũng rất dễ nhìn). 

1. Các truyện trong bản dịch Liêu Trai chí dị của Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Ngô Tường Vân in năm 1916-1918: Cuốn thứ nhứt (Aout 1916): Chuyện nàng Liên Tỏa (Liên Tỏa), Chuyện nàng Thanh Phụng (Thanh Phượng), Chuyện nàng Ngũ Thu Nguyệt (Ngũ Thu Nguyệt), Chuyện Diệp Sanh (Diệp sinh), Chuyện ăn mày tiên (Cái tiên), Bói tiền (Bốc tiền), Chuyện mồ Tào Tháo (Tào Tháo trủng), Chuyện Tần Cối (Tần Cối), Chuyện nàng Lăng Giác (Lăng giác), Thay hồn đổi xác (Trường Thanh tăng), Chuyện Trương Hồng Tiệm (Trương Hồng Tiệm). Cuốn thứ nhì (Septembre 1916): Chuyện Trương Hồng Tiệm (tiếp theo), Chuyện nàng Hồng Ngọc (Hồng Ngọc), Chuyện nàng Hằng Nương (Hằng Nương), Tề Thiên Đại thánh (Tề Thiên Đại thánh), Chuyện nàng A Bửu (A Bảo), Chuyện ông Lục Phán quan (Lục Phán quan), Chuyện nàng Hiệp nữ (Hiệp nữ). Cuốn thứ ba (Mars 1917): Chuyện nàng Hiệp nữ (tiếp theo), Chuyện Mao Đại Phước (Mao Đại Phúc), Chuyện nàng Anh Ninh (Anh Ninh), Chuyện nàng Tiểu Mai (Tiểu Mai), Chuyện Châu nhi (Châu nhi), Quả báo (Chiết lâu nhân), Gươm bén (Khoái đao), Chuyện nàng Nhiếp Tiểu Thiến (Nhiếp Tiểu Thiến), Chuyện họ Đỗ (Đỗ thị). Cuốn thứ tư (Novembre 1917): Chuyện họ Đỗ (tiếp theo), Chuyện Trần Sanh ở đất Hà Gian (Hà Gian sinh), Con ngươi nói chuyện (Đồng nhãn ngữ) Chuyện nàng Liên Hương (Liên Hương), Chuyện hai anh em Trương Thành (Trương Thành), Chuyện nàng Trần Vân Thê (Trần Vân Thê), Chuyện người Nhạc Trọng (Nhạc Trọng), Chuyện chàng Đại Nam (Đại Nam), Chuyện người Tăng Hữu Vu (Tăng Hữu Vu). Cuốn thứ năm (Juillet 1918): Chuyện ngươi Tăng Hữu Vu (tiếp theo), Chuyện quan Ngự sử huyện Phong Đô (Phong Đô Ngự sử), Chuyện đám cưới chồn (Hồ giá nữ), Chuyện chàng rể bị ma giấu (Tân lang), Chuyện mưa tiền (Vũ tiền), Chuyện nàng Tiểu Tạ (Tiểu Tạ), Chuyện cỏ Thủy mãng (Thủy mãng thảo), Chuyện nàng Thường Nga (Thường Nga), Chuyện Bành Hải Thu (Bành Hải Thu), Chuyện nàng Trước Thanh (Trúc Thanh). 

2. Một số bản dịch Liêu Trai chí dị trên Nông cổ mín đàm: Lương Dũ Thúc, Thương người khác thể thương thân, Ghét người khác thể vun phân cho người, Nông cổ mín đàm, số 5, 6, 7 tháng 8.9.1901, chính là bản dịch truyện Thụy Vân (quyển IV) Lương Dũ Thúc, Tác thiện thiên giáng chi bá tường, số 19 và 20, ngày 5 và 19.12.1901, chính là bẫn dịch truyện Thuy mãng thảo, quyển II. 

Lương Hòa Quí, Lộng nguyệt thành tiên, số 25, ngày 23.1.1902, chỉnh là bản dịch trưyện Hồ Tử thư, quyển II. 

Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện Hồng Ngoc, số 51 và 53, ngày 14 và 28.8.1902, chính là bản dịch truyện Hồng Ngọc, quyển III. 

Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện thần hoa, số 128, ngày 11.1.1904, chính là bản dịch truyện Hoa thần, Phụ lục V, quyển XVI. 

Lương Dũ Thúc, Chuột hãy còn có nghĩa, người há chẳng làm nhơn, số 8, ngày 19.9.1901, chính là bản dịch truyện Nghĩa thử, quyển XlII. Lương Dũ Thúc, Nghĩa khuyển, số 9, ngày 26.9.1901, chính là bản dịch truyện Nghĩa khuyển, quyển XIV. 

Khuyến Thiện đạo nhân, Hoành tài bất phú, số 49, 50 ngày 31.7 và 7.8.1902 chính là bản dịch truyện Nhiêm Tú, quyển II. 

Nguyễn Đoan Khai, Phi ngưu, số 142, ngày 26.5.1904 chính là bản dịch truyện Ngưu phi, quyển XIV. 

">

Truyện Liêu Trai Chí Dị II




Hình quảng cáo cho phim BẠCH PHÁT

***

Chương 1: Kháng chỉ cự hôn (1)

Từ xưa đến nay, đại khái nàng là vị công chúa hòa thân đầu tiên vừa mới đến là bị cự tuyệt ở ngoài cửa!

Ánh nắng tháng ba ấm áp như nước mùa xuân, xuyên thấu qua màn cửa sổ sa hoa mỹ lệ của xe ngựa, chiếu lên trên người nữ tử đang mặc một thân giá y đỏ thẫm, hợp thành một tầng ánh sáng vàng ấm mong manh, mông lung mơ hồ, một cảm giác tuyệt đẹp nói không nên lời. Nữ tử đó là vì hòa thân mà đến, lại bị cự tuyệt ở ngoài cửa, trưởng công chúa của Khải Vân quốc, Dung Nhạc - Mạn Yêu.

(Giá y: áo cưới)

Trải qua một tháng lặn lội đường xa, Mạn Yêu chỉ cảm thấy xương cốt trên người sắp muốn tan rã ra, không khỏi lười biếng phủ chăn gấm nằm nghiêng trên giường, nhắm mắt nghỉ ngơi, nghe bên ngoài xe ngựa truyền tới âm thanh ồn ào, khẽ nhíu mày.

"Cốc, cốc, cốc......"

"Xin hỏi có người không? Làm phiền hướng Vương gia thông báo một tiếng, trưởng công chúa Dung Nhạc đã tới rồi!" Ngoài đại môn trang nghiêm khí phái, một thị vệ đeo trường kiếm bên hông không ngừng gõ cửa.

Phía bên trên đại môn treo một tấm bảng hiệu, viết ba chữ to nạm vàng cực kỳ khí thế: Phủ Ly Vương, đây là phủ đệ của Ly Vương - Tông Chính Vô Ưu. Lâm Thiên quốc trừ Thái Tử ra, chỉ có một vị hoàng tử duy nhất ở bên ngoài được phong hào - Ly Vương Tông Chính Vô Ưu, đây đúng là đối tượng mà trưởng công chúa Dung Nhạc phải hòa thân.

Lúc này, đại môn của phủ Ly Vương đóng chặt, không có một khe hở, sợ là cả những hạt cát bụi trong không khí cũng khó mà lọt vào.

"Dương đại nhân, ngài xem...... Đều đã nữa canh giờ sắc trời cũng sắp tối, vẫn là không có ai ra mở cửa, làm sao bây giờ?" Thị vệ nôn nóng quay đầu lại, hỏi một nam tử trung niên thân mặc quan bào, tướng mạo nho nhã, là Lễ Bộ Thượng Thư - Dương Duy, người của Lâm Thiên quốc, vừa mới nhậm chức không lâu.

(nửa canh giờ: một tiếng đồng hồ)

Lần hòa thân này, công việc đó là do hắn phụ trách, vốn dĩ là an bài Ly Vương tự mình nghênh đón công chúa vào thành, nhưng Ly Vương lại đóng cửa không ra, rơi vào đường cùng hắn đành phải chính mình dẫn người nghênh đón, lại không ngờ, sau lúc nghênh đón công chúa, đại môn của phủ Ly Vương vẫn đóng chặt như cũ, mặc cho bọn hắn kêu cửa như thế nào, bên trong vương phủ căn bản không có người để ý tới.

Một vị đại thần phẩm cấp thấp lo lắng sốt ruột, nói: "Dương đại nhân, trưởng công chúa Dung Nhạc được Khải Vân đế hết mực yêu thương sủng ái. Nghe nói lần hòa thân này, Khải Vân đế thập phần không nỡ, tự mình tiễn đưa mấy trăm dặm đường, nếu Khải Vân đế biết được Vương gia chậm trễ tiếp đón công chúa như thế, sợ là tình hình sẽ không ổn a!"

Dương Duy cau mày, buồn rầu mà thở dài, lời nói của vị đại nhân này, hắn sao lại không biết, nhưng Ly Vương không mở cửa, hắn làm sao mà có biện pháp?

Một nam tử có đôi mắt giống như mắt chuột, thấy Dương Duy đầy mặt u sầu, vội cười nịnh nọt tiến lên đề nghị: "Không bằng chúng ta tìm thêm người, phá cửa ra......"

"Câm mồm!" Không đợi nam tử kia nói xong, Dương Duy đã trợn tròn hai mắt nhìn nam tử kia giống như gặp quỷ, giận dữ ngắt lời: "Hỗn láo, ngươi không muốn sống nữa thì tìm một nơi tự mình kết liễu đi, đừng liên lụy đến tính mạng cả tộc của bổn quan!"

Đây chính là đại môn của phủ Ly Vương, cho hắn mượn mười ngàn cái lá gan, hắn cũng không dám tông cửa vào.

"Đúng vậy! Ngươi muốn chết cũng đừng kéo theo chúng ta!" Một quan viên khác cũng tức giận không thể áp xuống.

Cái lời đề nghị này chớ nói là thực hành, chỉ cần một câu nói này, nếu truyền đến trong tai Ly Vương, bọn họ sợ là chưa ăn hết mà đã ra đi rồi. ( ý nói sống chưa hết mà đã chết sớm)

Nam tử có đôi mắt chuột mới tới kinh thành, trừ bỏ vuốt mông ngựa bừa bãi, còn cái khác cái gì cũng đều không hiểu, nào đâu biết rằng chủ nhân của phủ Ly Vương là người chỉ cần dậm dậm chân một cái, thì sẽ đất rung núi chuyển. Mắt thấy vài vị đại nhân phản ứng kịch liệt mạnh mẽ như thế, sợ tới mức run cầm cập.

Thời gian chậm rãi trôi đi, trong không khí đầu Xuân lạnh lẽo, mồ hôi lạnh lại lặng lẽ bò lên trên thái dương của mọi người, Dương Duy lấy tay áo lau nhẹ, ngẩng đầu nhìn thấy sắc trời đã tối, hơi suy tư một lát, xoay người đi đến bên xe ngựa của Mạn Yêu, lễ phép nói:

"Công chúa, ngài ngồi xe ngựa một đường mệt nhọc, sớm đã mệt mỏi, không bằng trước hãy tới dịch quán nghỉ tạm, để sau khi hạ quan tiến cung bẩm báo với Bệ hạ, lại nghênh đón công chúa nhập phủ."

Cửa xe mở ra, một thị nữ nhô đầu ra, sắc mặt giận dữ, khẩu khí không tốt, nói: "Vẫn luôn nghe nói Lâm Thiên quốc là quốc gia lấy lễ nghi tiếp đãi khách, xem ra hữu danh vô thực! Công chúa của chúng tôi gả tới đây, Ly Vương không ra thành nghênh đón thì thôi đi, thế nhưng còn đóng cửa phủ lại không cho công chúa chúng tôi nhập phủ, đây là lễ nghi gì? Rõ ràng chính là không đem Khải Vân quốc chúng tôi để vào mắt, khiến cho người ta rất hoài nghi về thành ý liên hôn của Lâm Thiên quốc các ngươi!"

Dương Duy trong lòng hơi kinh ngạc, không nghĩ tới chỉ là một thị nữ, mồm mép đã lanh lợi như thế, hắn vội cúi đầu đối với Mạn Yêu đang ngồi bên trong xe ngựa, cung kính lễ phép nói: "Bẩm Công chúa, ngài chớ nên hiểu lầm, Ly Vương...... Chỉ là tạm thời có chuyện quan trọng nên ra phủ, mới chậm trễ nghênh đón phượng giá của công chúa, hy vọng công chúa rộng lượng bao dung, hạ quan có thể bảo đảm, quốc gia của ta tuyệt đối rất có thành ý liên hôn cùng quý quốc, vì đại kế hai nước trăm năm hoà bình, cũng mong công chúa ngàn vạn chớ nghĩ nhiều!"

Thị nữ bĩu môi nói: "Có chuyện gì so với nghênh đón công chúa chúng tôi còn quan trọng hơn? Nếu như Vương gia không có ở vương phủ, trong phủ cũng còn có hạ nhân. Vì cái gì mà lâu như vậy, cũng chưa có ai tới mở cửa, rõ ràng chính là phải cho chúng tôi đứng ngoài cửa mà! Về sau, nếu thật vào vương phủ rồi, còn không chừng sẽ khi dễ công chúa chúng tôi đến chừng nào?!"

" Việc này......" Dương Duy nhất thời nghẹn lời, quần áo trên người bị mồ hôi lạnh làm ước sũng, nói không ra lời, chính lúc này không biết nên làm như thế nào mới đúng, thì bên trong xe ngựa bỗng nhiên truyền đến một âm thanh thanh nhã dễ nghe.

"Linh nhi, không được vô lễ!" Mạn Yêu lúc này mới chậm rãi ngồi dậy, tuy chỉ là trách cứ, ngữ khí lại không giận, nhưng lại giống như uy nghiêm.

Thị nữ được gọi là Linh Nhi vội lùi về, chu chu đôi môi, cúi đầu.

Kỳ thật Mạn Yêu trước khi đến Lâm Thiên quốc, đã hỏi thăm về Ly Vương. Nghe nói hắn, tính tình quái đản, hành sự không đi theo lẽ thường, tâm tư lại kín đáo, mưu lược hơn người, như là ở một tháng trước, hắn lấy một kế giải nguy biên quan của Lâm Thiên quốc, dưới sự phối hợp của thiếu niên danh tướng Phó Trù, lấy ít thắng nhiều, Man Di ở phương Bắc đại bại, giết chết hơn ba mươi vạn quân địch, được kỳ vọng sẽ trở thành Thái tử đương triều.

Càng làm cho mọi người kinh ngạc chính là, Tông Chính Vô Ưu cũng không có chủ động lên triều. Nếu như trong triều có chuyện quan trọng, Lâm Thiên hoàng sẽ kêu người đi triệu kiến hắn, hắn cũng theo tâm tình của mình mới quyết định có đi hay không. Mà tất cả hạ nhân trong vương phủ chỉ nghe lệnh một người, đó là Ly Vương, nếu không có lệnh của chủ tử, cho dù là Hoàng thượng có đến cũng sẽ bị cự tuyệt ngoài cửa, người cuồng vọng như thế, thế gian hiếm thấy.

Lâm Thiên hoàng có một vị sủng phi từng bởi vì nói câu "Ly Vương đại nghịch bất đạo", lập tức bị Hoàng đế biến vào lãnh cung, về sau không có người nào dám nói Tông Chính Vô Ưu nửa câu không phải.

Còn có lời đồn đãi nói, Tông Chính Vô Ưu có hai cấm kỵ lớn, một không uống rượu, hai không chạm vào nữ nhân, không ai biết nguyên nhân vì sao, chỉ biết nếu có người một khi phạm vào hai điều cấm kỵ này, sẽ không có kết cục tốt.
">

Truyện Bạch Phát Hoàng Phi

友情链接